Mục Lục:
Phần 1: Khái quát chung
I. Vài nét về đất nước Ấn Độ
II. Đặc trưng sử thi Ấn Độ
III. Sử thi Mahabrahata
1. Nguồn gốc,đặc trưng và ảnh hưởng
a. Nguồn gốc
b. Đặc trưng
c. Ảnh hưởng
2. Tóm tắt cốt truyện
Phần 2: Chiến tranh và tôn giáo trong sử thi Mahabrahata (Ấn
Độ)
I. Chiến tranh
1. Nền tảng lịch sử
2. Cốt truyện chiến tranh
3. Tính chất của cuộc chiến tranh
4. Cách kết thúc của cuộc chiến tranh
5.
Những
anh hùng nửa trần tục-nửa thần linh của Mahabharata
6. Giá trị nội
dung và nghệ thuật
II. Tôn giáo
1. Vài nét về tôn giáo Ấn Độ
2. Tôn giáo
trong sử thi Mahabrahata
3. Ý nghĩa của vấn đề tôn giáo trong sử thi Mahabrahata
Phần 3:Kết luận
Phần I. Khái quát chung
I. Vài nét
về đất nước Ấn Độ
Ấn Độ là một đất nước có nhiều chủng tộc, mang
nhiều ngôn ngữ khác nhau, ước tính có tới 1652 ngôn ngữ. Ấn Độ là nước có nền
văn minh rất sớm không kém Hi Lạp , La Mã, Ai Cập. Những cuộc khai quật của các
nhà khảo cổ học nổi tiếng đầu thế kỉ XX ở vùng Harappa và vùng Mônhengiô Đarô trên lưu vực sông Ấn chứng minh từ 3000
năm trước Công Nguyên đã xuất hiện một nền văn hóa khá rực rỡ của người Đraviđian.
Ấn Độ là một đất nước vô cùng phong phú đa
dạng hội đủ mọi sắc thái về điều kiện tự nhiên. Với lãnh thổ trải dài từ 7-32
độ vĩ bắc và 67 – 87 độ kinh đông, đó là một bán đảo hình tam giác tưởng chừng
như một khối thống nhất đơn giản về địa hình khí hậu nhưng đi sâu vào trong đó
mới có thể thấy được mọi thiên hình vạn trạng của đất nước này.
Với trí tưởng tượng phong phú của mình, người dân Ấn Độ hình dung đất nước họ như một nàng tiên cá xinh đẹp có mái tóc bạch kim dài tung bay trong mây trời Himalaya và có cái đuôi cá vẫy vùng trong Ấn Độ Dương xanh thẳm.
Còn dãy núi Himalaya bao la hùng vĩ là vận mệnh của Ấn Độ. Nó gợi lên bao nỗi sợ hãi cho tất cả mọi người nơi đây. Trong đó ẩn chứa biết bao câu chuyện huyền thọai linh thiêng gắn liền với đất nước con người Ấn Độ.Người ta nói rằng, dãy núi này trước kia vốn là một đàn voi biết bay đã làm phật ý vị thần vạn năng Indra, cho nên thần đã trừng phạt chúng bằng cách cắt mất cặp cánh của chúng và biến chúng thành những ngọn núi hùng vĩ . Nơi đây cũng trên ngọn núi Kailasa là nơi thiền định của vị thần Shiva để giúp cho thế gian được tiếp tục tồn tại.
Bên cạnh những sự tích thân thọai đó, ẩn dưới những bóng rợp của rừng cây bạt ngàn là những vị tu sĩ khổ hạnh. Họ rời bỏ cuộc sống gia đình trần tục để ngồi dưới gốc cây thiền định suy tư về vũ trụ bao la này. Nhìn lên những tán rợ của rừng núi Himalaya, họ cảm thấy thế giới thì bao la quá, mà con người chỉ là những sinh vật nhỏ bé phu du , họ tự hỏi sao vũ trụ thì vô hạn, mà vì sao con người lại hữu hạn, đối mặt với sinh lão bệnh tử, với nỗi đau khổ trầm luân, cũng từ đó, họ muốn tìm kiếm sự giải thoát khỏi cuộc sống này, muốn tách cái Atman (linh hồn cá thể) hòa nhập vào cái Braman (linh hồn
Với trí tưởng tượng phong phú của mình, người dân Ấn Độ hình dung đất nước họ như một nàng tiên cá xinh đẹp có mái tóc bạch kim dài tung bay trong mây trời Himalaya và có cái đuôi cá vẫy vùng trong Ấn Độ Dương xanh thẳm.
Còn dãy núi Himalaya bao la hùng vĩ là vận mệnh của Ấn Độ. Nó gợi lên bao nỗi sợ hãi cho tất cả mọi người nơi đây. Trong đó ẩn chứa biết bao câu chuyện huyền thọai linh thiêng gắn liền với đất nước con người Ấn Độ.Người ta nói rằng, dãy núi này trước kia vốn là một đàn voi biết bay đã làm phật ý vị thần vạn năng Indra, cho nên thần đã trừng phạt chúng bằng cách cắt mất cặp cánh của chúng và biến chúng thành những ngọn núi hùng vĩ . Nơi đây cũng trên ngọn núi Kailasa là nơi thiền định của vị thần Shiva để giúp cho thế gian được tiếp tục tồn tại.
Bên cạnh những sự tích thân thọai đó, ẩn dưới những bóng rợp của rừng cây bạt ngàn là những vị tu sĩ khổ hạnh. Họ rời bỏ cuộc sống gia đình trần tục để ngồi dưới gốc cây thiền định suy tư về vũ trụ bao la này. Nhìn lên những tán rợ của rừng núi Himalaya, họ cảm thấy thế giới thì bao la quá, mà con người chỉ là những sinh vật nhỏ bé phu du , họ tự hỏi sao vũ trụ thì vô hạn, mà vì sao con người lại hữu hạn, đối mặt với sinh lão bệnh tử, với nỗi đau khổ trầm luân, cũng từ đó, họ muốn tìm kiếm sự giải thoát khỏi cuộc sống này, muốn tách cái Atman (linh hồn cá thể) hòa nhập vào cái Braman (linh hồn
vũ trụ) đạt đến niềm vui bất
diệt giải thoát khỏi sự luân hồi.
Cũng từ dãy núi Hymalaya đó, hai dòng sông Ấn Hằng tuôn chảy xuống đồng bằng như dòng sữa mẹ ngọt ngào nuôi lớn người dân Ấn Độ bằng nguồn phù sa dồi dào. Chính nơi đây đã bắt đầu buổi bình minh sơ khai của đất nước Ấn Độ, là cái nôi văn hóa cổ xưa lâu đời nhất trên thế giới và trường tồn liên tục nhất quán cho đến ngày hôm nay.
Đất nước có tên Ấn Độ cũng bắt nguồn từ dòng sông Indus này. Nó chảy về phía tây, đổ ra vịnh Bengal chia làm năm nhánh nên được gọi là vùng Punjab. Nhưng đối với tâm thức người Ấn Độ, dòng sông Hằng Ganga là một dòng sông linh thiêng có khả năng thanh tẩy mọi tội lỗi. Theo thần thoại, nữ thần Ganga được sinh ra từ một ngón chân thần Vishnu. Bà sống trên trời trước khi xuống trần gian. Khi mặt đất phủ đầy tro hỏa táng, hiền nhân Bhagiratha đã câu khấn thần Brahma và Shiva để cho dòng sông Hằng chảy xuống trần gian để rửa sạch lớp tro này và giải thóat cho linh hồn những người chết. Để phòng ngừa sự ngập lụt nguy hại, thần Shiva để cho nước rót xuống đầu mình chảy ngoằn ngoèo qua các lọn tóc rối quăn của thần và thần đã chia nó ra làm bảy con suối chảy yên lành trên nước Ấn Độ.
Với niềm tin như thế, hàng triệu người dân Ấn Độ hàng năm, hay ít nhất là một lần trong đời mình đều phải đến đây để hành hương. Họ muốn được tắm dưới dòng sông Hằng, uống nước sông Hẳng, và chết thả mình dưới dòng sông Hằng linh thiêng thần thánh nhằm được giải thoát khỏi bể khổ muôn đời.
Ấn Độ được mệnh danh là xứ sở của tôn giáo, xứ
sở tâm linh.
II. Đặc
trưng sử thi Ấn Độ:
Văn học cổ đại
Ấn Độ có hai thành tựu vĩ đại là thần thoại và sử thi ra đời trên cơ sở xã hội Ấn
Độ đã phát triển qua chế độ quân chủ phong kiến nhiều vương quốc đã hình thành.
Sử thi là bức tranh rộng lớn phản ánh hiện thực đời sống, tư tưởng của nhân dân
Ấn Độ cổ đại. Nó còn là bài ca vĩ đại ca ngợi những chiến công hiểm hách, khí
phách hào hùng được đề cao và ngưỡng mộ như những mẫu người lý tưởng.
Sử thi Ấn Độ
có những nét đặc trưng rất riêng biệt mang đậm dấu ấn của đất nước và con người
Ấn Độ.
Nét đặc trưng
dễ thấy nhất là sử thi Ấn Độ mang tính quy mô đồ sộ, trên thế giới ít có bộ sử
thi nào sánh ngang được với Mahabrahata và Ramayana về quy mô. Nguyên do là bởi
người Ấn Độ có thói quen suy nghĩ triền miên, giàu óc tưởng tượng. Hơn nữa đất
nước Ấn Độ rộng lớn có nhiều dân tộc, nhiều truyền thuyết, nhiều huyền thoại.
Các nghệ nhân kể chuyện thường sưu tầm các câu chuyện lan truyền trong các địa
phương, sâu chuỗi lại làm nội dung thêm phong phú và được kéo dài. Vì thế sử
thi Ấn Độ có sức khái quát rộng lớn.
Chính vì sự đồ sộ về quy mô của những thiên sử thi mà
hệ thống nhân vật cũng rất đa dạng và phong phú. Nhân vật trong sử thi Ấn Độ
bao gồm nhiều anh hùng, đạo sĩ, người phụ nữ, thần thánh, ma quỷ, quái vật…
Tính giáo huấn sâu đậm cũng là đặc trưng của sử thi Ấn
Độ. Dĩ nhiên sử thi của dân tộc nào cũng mang tính giáo huấn. Nó là cuốn bách
khoa toàn thư về đạo đức, luân lí của dân tộc. Nhưng sử thi Ấn Độ mang đậm tính
giáo huấn hơn. Bởi Ấn Độ là một xứ sở có nhiều tôn giáo, nhân dân Ấn Độ là
những con người mộ đạo, giáo lí các tôn giáo được phản ánh khá sâu sắc trong
các sử thi.
Sử thi Ấn Độ chứa trong nó nhiều triết lí, giáo lí sâu
sắc của nhiều tôn giáo khác nhau cho nên sự xung đột gay gắt về đạo lí trong sử
thi là điều tất yếu. Sử thi Ramayana và Mahabharata không chú trọng miêu tả
chiến tranh mà chú trọng miêu tả xung đột giữa cái thiện cái ác, giữa đạo lí và
phi đạo lí. Nếu có xung đột với nhau, trước tiên phải hòa giải, nếu không thành
mới tiến hành chiến tranh. Mục đích cuối cùng của chiến tranh là hòa hợp, hòa
bình. Đó là tinh thần Ấn Độ.
Những đặc trưng đó của sử thi Ấn Độ có thể tìm thấy
một cách trọn vẹn, toàn diện trong bộ sử thi Mahabrahata. Cùng với Ramayana,
hai tác phẩm sử thi Ấn Độ được đánh giá là “Chẳng khác gì những kim tự tháp
khổng lồ sừng sững. Đứng trước những công trình đó, những tác phẩm nhỏ bé của
phương Tây sẽ phải kính cẩn nghiêng mình” (Michelet, nhà phê bình văn
học Pháp thế kỉ XIX).
III. Sử thi
Mahabharata
1. Nguồn gốc,đặc
trưng và ảnh hưởng
a. Nguồn
gốc:
Cũng như Ramayana hoặc các tác phẩm khác ở thời kì cổ
đại, Mahabharata cũng khó xác định dược thời gian cụ thể. Theo các nhà nghiên
cứu câu chuyện được lưu truyền từ thế kỉ V TCN. Về sau được bổ sung liên tiếp,
nhiều người ghi chép và chỉnh biên cho mãi đến đầu thế kỉ V đầu Công Nguyên mới
chấm dứt.
Theo truyền thuyết người sưu tập đầu tiên cuốn sử thi
này là đạo sĩ Krixna Dwaipayana Vyasa, cũng là một trong những ông tổ của các
nhân vật sử thi Vyasa đã thức dậy lúc bình minh suốt 3 năm ròng để sáng tác tác
phẩm tuyệt diệu này.
Nguyên bản lúc đầu có khi lên đến hàng ngàn vạn câu
thơ, nhưng đến nay chỉ còn sưu tầm được 110.000 slôka ( câu thơ đôi) gồm 22 vận
dòng.
Bản viết bằng tiếng Sans Krit đầu tiên đươc in ra ở
Calcuta vào năm 1884. Bản dịch ra Anh văn đầu tiên là bản của Protapchanđra
Roy, in 1883. Bản dịch ra tiếng Việt đầu tiên hiện nay dựa vào bản tóm tắt cốt
truyện bằng Anh văn của C. Kajagopalachari.
b.Đặc trưng:
Ra đời khi Ấn Độ được chia thành nhiều vương
quốc nhỏ, chế độ quân chủ phong kiến ra đời.
Bức tranh sinh động phản ánh đời sống tư tưởng của nhân dân qua những cuộc xung đột vũ trang giữa các vương quốc, chủng tộc.
Bài ca vĩ đại ca ngợi chiến công hiển hách, khí phách hào hùng của các anh hùng lí tưởng mà nhân dân ngưỡng mộ, tôn thờ.
Ramayana và Mahabharata mở ra thời đại hoàng kim cho sử thi Ấn Độ.
Bức tranh sinh động phản ánh đời sống tư tưởng của nhân dân qua những cuộc xung đột vũ trang giữa các vương quốc, chủng tộc.
Bài ca vĩ đại ca ngợi chiến công hiển hách, khí phách hào hùng của các anh hùng lí tưởng mà nhân dân ngưỡng mộ, tôn thờ.
Ramayana và Mahabharata mở ra thời đại hoàng kim cho sử thi Ấn Độ.
+Tính quy mô đồ sộ
Nguyên nhân:
Người Ấn có thói quen suy nghĩ dài dòng, giàu óc tưởng tượng.
Ấn Độ rộng lớn, nhiều dân tộc, các câu chuyện truyền trong dân gian nhiều.
Ramayana dài 5 vạn câu.
Mahabharata dài 22 vạn câu, gấp 7 lần Iliát và Ôđixê cộng lại.
Có sức khái quát rộng và bối cảnh hoành tráng:
Cái gì có trên đất Ấn Độ thì đều có trong Mahabharata, cái gì không có trong đó thì cũng không thấy có trên đất Ấn Độ.
Người Ấn có thói quen suy nghĩ dài dòng, giàu óc tưởng tượng.
Ấn Độ rộng lớn, nhiều dân tộc, các câu chuyện truyền trong dân gian nhiều.
Ramayana dài 5 vạn câu.
Mahabharata dài 22 vạn câu, gấp 7 lần Iliát và Ôđixê cộng lại.
Có sức khái quát rộng và bối cảnh hoành tráng:
Cái gì có trên đất Ấn Độ thì đều có trong Mahabharata, cái gì không có trong đó thì cũng không thấy có trên đất Ấn Độ.
+Tính giáo huấn sâu đậm
Nguyên nhân:
Ấn Độ có nhiều tôn giáo, giáo lý tôn giáo phản ánh sâu sắc trong sử thi.
Người Ấn Độ mộ đạo.
ST là cuốn sách giáo khoa về đạo đức, luân lí của dân tộc.
Đề cao lí tưởng đạo đức và bổn phận của Ksatrya hướng con người vào điều thiện chống cái ác, sống theo đạo lí công bằng, bác ái Dharma.
Hai bộ sử thi này như Kinh Thánh, khuyên răn con người tu luyện và có thể cứu rỗi linh hồn: Chừng nào sông chưa cạn, đá chưa mòn thì Ramayana còn làm say mê lòng người và cứu họ ra khỏi vòng tội lỗi.
Krixna Dvaipayana: Những ai đã nghe sử thi này thì mọi tội lỗi đã phạm trong hành động ý nghĩa và lời nói đều được tẩy rửa.
+Tính xung đột gay gắt về đạo lí
Chú trọng miêu tả sự xung đột giữa cái thiện và cái ác, giữa đạo lí và phi đạo lí.
Trước tiên hòa giải, không được mới đi đến chiến tranh.
Điều luật chiến tranh: công bằng, nhân đạo.
Mục đích cuối cùng: hòa hợp, hòa bình.
Ấn Độ có nhiều tôn giáo, giáo lý tôn giáo phản ánh sâu sắc trong sử thi.
Người Ấn Độ mộ đạo.
ST là cuốn sách giáo khoa về đạo đức, luân lí của dân tộc.
Đề cao lí tưởng đạo đức và bổn phận của Ksatrya hướng con người vào điều thiện chống cái ác, sống theo đạo lí công bằng, bác ái Dharma.
Hai bộ sử thi này như Kinh Thánh, khuyên răn con người tu luyện và có thể cứu rỗi linh hồn: Chừng nào sông chưa cạn, đá chưa mòn thì Ramayana còn làm say mê lòng người và cứu họ ra khỏi vòng tội lỗi.
Krixna Dvaipayana: Những ai đã nghe sử thi này thì mọi tội lỗi đã phạm trong hành động ý nghĩa và lời nói đều được tẩy rửa.
+Tính xung đột gay gắt về đạo lí
Chú trọng miêu tả sự xung đột giữa cái thiện và cái ác, giữa đạo lí và phi đạo lí.
Trước tiên hòa giải, không được mới đi đến chiến tranh.
Điều luật chiến tranh: công bằng, nhân đạo.
Mục đích cuối cùng: hòa hợp, hòa bình.
+Tính đa dạng của hệ thống nhân vật
Nhân vật phong
phú: người anh hùng, đạo sĩ, người phụ nữ thần thánh, ma quỉ, quái vật...
Phần lớn nhân vật đã xuất hiện trong thần thoại, truyền thuyết.
Nhân vật thường biến dạng, hóa thân nửa thần nửa người.
Nhân vật thường xuất thân thần linh, con vật thường mang cốt cách người.
Người anh hùng đạo đức, thiện lành, tài cao đức trọng.
Phần lớn nhân vật đã xuất hiện trong thần thoại, truyền thuyết.
Nhân vật thường biến dạng, hóa thân nửa thần nửa người.
Nhân vật thường xuất thân thần linh, con vật thường mang cốt cách người.
Người anh hùng đạo đức, thiện lành, tài cao đức trọng.
c. Ảnh hưởng
Mahabharata có ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới đặc
biệt là ở Đông Nam Á. Ở Indonexia, khoảng thế kỉ VII đến thế kỉ VIII xuất hiện
nhiều truyện được phóng tác từ cốt truyện Mahabharata, như truyện Trận
đánh vĩ đại của con cháu Bharata bằng tiếng Java cổ, Đám
cưới của Acgiuna (Ayuna Wiwaha). Ở Campuchia, Mahabharata sớm xuất hiện
, rõ nét nhất vào thời kì văn học Ăngco, nhiều cảnh trong Mahabharata được thể
hiện bằng phù điêu trên mặt đền Ăngco và nhiều đền đài khác.
2. Tóm tắt
cốt truyện:
Bharata, vua của triều đại Mặt Trăng sinh ra 2 người con trai
thành 2 dòng họ Kuru và Panđu. Panđu sinh đươc 5 người con trai gọi là ahn em Panđava. Còn Đritaratra bị
mù lòa thuộc dòng họ Kuru sinh được 100 người con trai gọi là anh em Korava.
Panđu qua đời, Đritararata
lên ngôi, đem 5 người con của anh về nuôi. Năm anh em trưởng thành nhanh chóng
nổi tiếng là những người tài cao, đức trọng. Điều đó làm cho ahn em Korava ghen tị. Bọn họ đã nhiều lần lập
mưu hãm hại từng người trong 5 anh em nhưng đều thất bại.
Đritararatra
biết rõ điều đó, đem 5 anh em Panđava đến ở lâu đài Varanamvada. Ahn em Korava lại lập mưu đốt cháy lâu đài hòng
giết chết họ nhưng nhờ biết tin tức trước nên anh em Panđava dẫn mẹ là Kunti
trốn được vào rừng sâu. Họ cải trang thành những đạo sĩ Balamôn và sống ẩn dật.
Một năm sau, vua Đrôpađa
xứ Panchala mở hội kến phò mã cho công chúa Đrôpađi xinh đẹp. Anh em Panđava
nghe tin bèn đến thi tài. Các hoàng tử 4 phương đều thất bại, không ai có thể
giương cung bắn được mũi tên xuyên qua bánh xe đang quay, lấy mắt cả vàng làm
đích. Duy chỉ có Acgiuna, em trai
thứ 3 của anh em Panđava giương cung
bắn 5 phát trúng cả 5. Acguna làm đám ở thành cưới với công chúa Đrôpađi. Năm anh em đem Đrôpađi về ra mắt bà Kunti. Vừa về, một người nói “ thưa mẹ,
hôm nay chúng con mang về một vât quý”. Bà Kunti
liền nói “ thế thì các con hãy chia đều cho nhau”. Lời của bà thành mệnh
lệnh thế là Đrôpađi thành vợ của 5
anh em.
Sau việc này, Đritatra
và anh em Korava biết được 5 anh
em Panđava vẫn còn sống. Đritaratra
mời 5 anh em về chia một nửa vương quốc. Yudihitira
là anh cả được tôn làm vua vương quốc Inđraprasa cạnh vương quốc Haxtinapura
của dòng họ Korava.
Nhờ tài năng và đức độ, vương quốc của 5 anh em
Panđava trở nên thịnh vượng. Một lần nữa, anh em Korava lại ghen tị và tìm cách
tiêu diệt.
Yudihitira vốn say mê cờ bạc nên bị Duryodara lôi vào cảnh sát phạt trên
bàn xúc xắc. Mất cả vương quốc, anh em Panđava
lần nữa lại đem mẹ già và vợ con vào rừng ẩn dật 13 năm. Hết hạn đó họ trở
lại vương quốc của mình nhưng Duryodara
lật lọng không chịu trao trả vương quốc. Anh em Pandava tức giận buộc phải gây chiến với anh em Korava. Cuộc chiến
tranh giữa anh em dòng họ Bharata nổ ra, lôi cuốn các vương quốc lân cận tham
chiến, hàng triệu người tham gia trận mạc với hàng vạn ngựa xe cung kiếm. Chiến
trường Curusetora mù mịt khói lửa trong vòng 8 ngày, hàng triệu xác chết chất
thành núi, máu đỏ thành sông. Kết thúc chận chiến chỉ còn 11 người sống sót.
Anh em Panđava tuy chiến thắng nhưng
vô cùng đau xót khi phải chém giết anh em cùng huyết thống của mình. Sau khi
làm lể giết ngựa làm lể tế thần Ashvamedha để tỏ lòng sám hối, Yudihitira lên ngôi trị vì trong 36
năm.
Câu chuyện kết
thúc bằng cuộc hành hương của 5 anh em Panđava
và nàng Đropađi lên đỉnh Mêru của
ngọn núi Himalaya, nơi đó là cõi trời. Dọc đường Đropađi và 4 anh em lần lượt bỏ xác ở trần gian riêng Yudihitira và
con chó mà chàng gặp dọc đường nhận làm bạn đồng hành là lên được núi. Vì thần
Inđra không cho con chó vào cõi trời nên Yudihitira đã không vào cõi Trời. Lúc
ấy con chó biến thành thần Đácma vầ cho biết đây là hành động thử thách đạo
đức. Khi vào cõi Trời Yudihitira đã
xin ở lại chốn hỏa ngục với an hem và bạn bè của chàng vì đó là Yudihitira “ thiên đường của tôi” .
Trước sau Yudihitira
vẫn thể hiện lòng trung thành của mình cho nên năm anh em đều được vào chốn
vĩnh hằng
Phần II.
Chiến tranh và tôn giáo trong sử thi Mahayana:
I.
Chiến tranh
1. Nền tảng
lịch sử
Nền tảng lịch
sử của Mahabharata là một thời đại đầy nhiễu nhương xung đột.
- Xung đột giữa chế độ thị tộc dựa trên cơ sở huyết
thống với chế độ chiếm hữu nô lệ mới manh nha trên cơ sở tư hữu và thể chế nhà
nước.
- Xung đột giữa hai đẳng cấp BRAHMANA (tăng lữ) và
KSHATRIYA (Võ sĩ quí tộc) trong cuộc chiến đấu giành quyền lực tối thượng giữa
thần quyền và vương quyền.
- Xung đột giữa nội bộ đẳng cấp KSHATRIYA trong những
cuộc chiến tranh giành đất đai, mở rộng bờ cõi giữa các vương quốc, các tiểu vương
quốc, các bộ lạc cổ đại.
Các xung đột này thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau và thể
hiện ra thành những cuộc chiến tranh có qui mô to lớn, sức huỷ diệt khủng khiếp
của thời kì cổ đại.
Mahabharata là kí ức lịch sử về những cuộc chiến tranh
như vậy. Tác phẩm kể về cuộc chiến tranh cốt nhục giữa hai chi thuộc cùng dòng
họ Bharata. Pandava tấn công Kaurava để giành lại vương quốc của họ đã bị chiếm
đoạt một cách bất công.
Hiện thực xã
hội và lịch sử Ấn Độ được đưa vào Mahabharata vô cùng hỗn độn, mênh mông như
một đại dương với tất cả phong tục, lễ nghi của tất cả các tầng lớp xã hội, tất
cả núi sông đồng bằng thành thị đều có mặt ở đây. Với sự chồng chất “hằng hà sa
số” nghĩa là số cát ở sông Hằng, sự kiện của đất nước Ấn Độ, một đất nước to
lớn và phức tạp như một châu lục hơn là một quốc gia, đề tài sử thi Ấn Độ cũng
phức hợp. Nhưng trong sự đại diện đó nổi lên vấn đề chiến tranh.Mahabharata có
nghĩa là cuộc chiến tranh lớn của dòng họ Bharata.
2. Cốt
truyện chiến tranh:
Mahabharata trước hết là một tập hợp rộng lớn và hỗn
tạp các truyền thống cổ xưa. Cốt truyện trung tâm là cốt truyện chiến tranh,
một cuộc chiến tranh theo truyền thuyết diễn ra vào thế kỉ 14 TCN nhằm mục đích
tranh giành quyền bá chủ vùng Bắc Ấn. Tác phẩm bao quát toàn bộ những sự kiện,
những biến cố xảy ra trong cuộc đời của các nhân vật.
Mặc dù chỉ chiếm 1.4 dung lượng tác phẩm. Nhưng câu
chuyện chiến tranh vẫn chiếm một vị trí rất quan trọng. Câu chuyện về cuộc
chiến tranh đẫm máu huynh đệ tương tàn giữa hai anh em Panđava va Kôrava thuộc
cùng một dòng họ. Cuối cùng là sự hủy diệt của dòng họ Kôrava đã để lại dấu ấn
sâu đậm trong lịch sử, trong tâm thức của con người. Cuộc chiến tranh kéo dài
18 ngày đêm trên cánh đồng Kôrava giữa hai bộ lạc thủy tổ của cùng một dòng họ
người Arian.
Nội dung cốt truyện:
a. Phần mở
đầu:
Giới thiệu nguồn gốc lai lịch và hoàn cảnh cho các
nhân vật xuất hiện. Xuất hiện nhiều tình tiết gợi mở cho phần thắt nút cốt
truyện. Do tài trí hơn người của năm anh em Panđava mà Đurryodara đã nhiều lần
bày mưu tính kế nhưng đều thất bại.
b. Thắt nút:
Xung đột truyện là lòng hận thù- nguyên nhân sâu xa,
xung đột khởi điểm dấu hiệu dự báo một cuộc chiến tranh khốc liệt sẽ diễn ra,
chính là xuất phát từ trò chơi xúc xắc.
c. Phần phát
triển:
Cuộc chiến
tranh diễn ra.
3.
Tính chất của cuộc chiến tranh
Qua sự phản ánh của Mahabharata, tính chất của chiến
tranh đã được khúc xạ đi nhiều. Bằng cớ là trong giải pháp tìm kiếm hoà bình
của Pandava, họ chỉ cần năm làng nhỏ, thay vì cả một vương quốc, miễn là tránh
được xung đột đổ máu với các anh con bác của mình. Chỉ khi Duryodhana nhất định
cự tuyệt: “Không một tấc đất cắm dùi !”chiến tranh mới trở nên không sao tránh
khỏi. Xung đột chủ yếu giữa Pandava và Kaurava là xung đột giữa tinh thần bình
đẳng và bác ái, yêu thương, hoà hợp (vốn là truyền thống đạo đức của thời kì
Công xã nguyên thuỷ, đồng thời là khát vọng của người Ấn) với cái phi đạo lí,
bất công, hiềm tị và thù hằn (là bản chất gắn với cơ sở tu hữu và thể chế Nhà nước
của các quốc gia chiếm hữu nô lệ mới hình thành). Ở đây, ta thấy cuộc chiến
tranh giữa DHARMA (một trong những nghĩa của từ DHARMA là Đạo lí, Lẽ phải) và
ADHARMA (Phi đạo lí). Người Ấn gọi chiến tranh trong Mahabharata là
DHARMAKSHETRE (chiến tranh bảo vệ DHARMA).
Đây
là điểm khác với Iliad. Trong Iliad, mỗi anh hùng Achille và Hektor đều đại
diện, kết tinh tất cả vẻ đẹp và sức mạnh của dân tộc mình, chiến đấu cho quyền
lợi của dân tộc, không ai chính nghĩa và phi nghĩa. Trong khi đó, Mahabharata
có sự phân biệt chính nghĩa và phinghĩa, thể hiện khá rõ sự đối lập giữa người
với người theo các nguyên tắc đạo đức.
Mahabharata không chỉ không thể hiện xung đột DHARMA
–ADHARMA thành cuộc giao tranh giữa hai phe Pandava –Korava trên chiến trường
mà còn chủ quan hoá xung đột đó trong sự đấu tranh và khắc phục giữa cái cao thượng
và cái thấp hèn, ánh sáng và bóng tối trong tâm hồn của mỗi nhân vật. Trong
Mahabharata có câu: “Không một người đức hạnh nào lại đủ kiên cường để suốt đời
giữ vững phẩm hạnh, cũng như không một kẻ tội lỗi nào lại quá xấu xa để sống
trọn vẹn cuộc đời trong vũng bùn tội lỗi. Đời là một cuộn chỉ rối tung và trên
thế gian này, không có ai không làm cả việc thiện lẫn điều ác. Mỗi người và mọi
người đều phải gánh chịu lấy hậu quả những hành động của mình” . Với lối tư duy
biện chứng như vậy, sử thi này không phân tuyến nhân vật một cách giản đơn theo
cực thiện –ác.
Sử thi này chia sẻ sâu sắc chân lí ấy trong khi xây
dựng hệ thống nhân vật của nó mà ngay cả những anh hùng mẫu mực nhất cũng không
phải luôn luôn chiến thắng trong cuộc chiến tâm hồn giữa DHARMA và ADHARMA của
bản thân. Ta lưu ý ở đây hiện tượng hàng loạt anh hùng suy thoái, tha hoá qua tiến trình chiến
tranh. Khiến cho cuộc chiến lúc đầu tuân theo những luật lệ cao nhưng càng về
cuối các luật lệ đó càng bị vi phạm. Yudhisthira, người anh cả trong năm anh em
Pandava, người anh hùng nổi tiếng đạo cao đức trọng đến ngày thứ 14 của cuộc
chiến tranh cũng bị dục vọng lôi cuốn để sa xuống con đường của người trần tục.
Nếu như trong các sử thi khác, nói chung ta gặp mô
hình:
· Tình huống.
· Hành động của người anh hùng trả lời tình huống đó.
· Kết quả của hành động (thường là làm thay đổi tình
huống, dẫn đến một tình huống mới) thì trong Mahabharata, nhiều khi ta lại gặp
mô hình trên có biến thái chút ít:
ü Tình huống.
ü Người anh hùng đắn đo về lẽ nên –không nên, phải
–trái, được –mất của hành động.
ü Hành động của người anh hùng.
ü Kết quả của hành động.
ü Người anh hùng tự thẩm định về hành động của mình và
kết quả của hành động, ở đây nhiều khi họ ân hận, dằn vặt, họ thấy chiến thắng
vật chất lại chỉ là một thất bại tinh thần.
Trong khi vẫn xây dựng nhân vật chủ yếu bằng hành
động, hành động được xem là hình thức tồn tại cơ bản, là tiêu chí giá trị cơ
bản của các anh hùng, thì bên cạnh những “hành động bên ngoài” (“là các hành động
dứt khoát,
trên các thời điểm “nút”, bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật, trong quá trình
và kết quả của nó sẽ xảy ra sự thay đổi các quan hệ qua lại giữa các nhân vật,
thay đổi số phận riêng tư hay địa vị xã hội của chúng”) tác phẩm còn chú ý soi
rọi những “hành động bên trong” (“trong trường hợp của hành động bên trong, các
sự kiện xuất hiện trước hết với tư cách là nguyên nhân của các suy nghĩ, cảm
xúc của nhân vật. Trong tiến trình sự kiện, cái bị thay đổi không hẳn là tình
trạng của nhân vật mà là trạng thái tâm lí của chúng”).
Chú ý soi rọi những “hàng động bên trong”, xung đột
bên trong giữa DHARMA và ADHARMA của mỗi nhân vật, sử thi Mahabharata cho thấy
các anh hùng trong quan niệm Ấn Độ không bao giờ tách rời các tiêu chuẩn đạo
đức, nó bao hàm cái cao thượng, vị tha, yêu chuộng sự hoà bình. Sức mạnh của người
anh hùng không chỉ thể hiện trong khả năng hành động mà nhiều khi ở chính sự
kiên nhẫn, sức chịu đựng, quyết định lùi bước trước những hành động không xứng
đáng.
Trong khi giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh
Troy được qui tụ quanh sự kiện về cơn giận của Achille là linh hồn của Iliad
thì cuộc chiến Kurukshetra lại không phải là toàn bộ mối quan tâm của
Mahabharata. Mahabharata không chỉ tập trung vào 18 ngày chiến trận mà bao trùm
gần như toàn bộ cuộc đời của các anh hùng từ khi sinh ra cho tới tận kết thúc,
khi họ từ bỏ trần gian này sang thế giới bên kia. Trong khi lí tưởng anh hùng
là lí tưởng duy nhất đối với Iliad thì lí tưởng anh hùng chỉ là một phương diện
trong hệ thống các lí tưởng đạo đức –xã hội của Mahabharata mà thôi.
Một mặt thì, trên sân khấu vĩ đại của Mahabharata qua
18 ngày chiến trận, chúng ta thấy biểu dương tầng tầng, lớp lớp những dũng sĩ
anh hùng chia xẻ khát vọng sống hào hùng: cuộc sống đẹp nhất là cuộc sống với
những võ công oanh liệt, cái chết đáng mơ ước nhất là cái chết trên chiến trường
như một chiến binh dũng cảm. Chết, đối với các chiến sĩ, không phải là hết, mà
là sự hoàn thành bổn phận. (DHARMA đồng thời còn có nghĩa là Bổn phận cá nhân.
Theo quan niệm Hindu giáo, mỗi người, tùy theo đẳng cấp của mình mà có một chức
năng xã hội riêng và anh ta phải phục vụ và duy trì xã hội như một tổng thể
bằng cách thực hiện đầy đủ tinh thần bổn phận nhiệm vụ đó của mình. DHARMA của
đẳng cấp KSHATRIYA là chiến đấu). Chúng ta sẽ hiểu vì sao máu, thương tổn, hi
sinh luôn được miêu tả đẹp đẽ, thơ mộng, thậm chí ngời sáng (“Bhima đứng hiên
ngang trên chiến địa, máu me đỏ lòm khắp mình mẩy, trông như một ngọn lửa đang
bốc cháy rừng rực”. “Như một cán cờ lớn sau ngày hội vui, xác Salya nằm sõng
soài trên chiến địa” trong khi cảm hứng say máu, hiếu chiến hoàn toàn không
phải cảm hứng chủ đạo của sử thi này. Ngược lại, những kẻ chạy trốn khỏi chiến
trường, khước từ bổn phận chiến đấu hiện lên trong Mahabharata qua những bức
biếm họa với cái hài –phủ định. Ở đây chúng ta nhận thấy một sự tương đồng với
Iliad trong giọng điệu anh hùng.
4.Cách
kết thúc chiến tranh
Kết thúc chiến tranh của Mahabharata lại là
một kết thúc khá xa lạ với các sử thi anh hùng khác trên thế giới. Trong bức tranh
về chết chóc, buồn đau, thất vọng sau chiến thắng của Pandava hầu như không có
cảm hứng ca ngợi mà chỉ hiện ra tính chất rác rưởi, vô nghĩa, đẫm máu của chiến
tranh. Thay cho khúc khải hoàn ca chỉ có tiếng khóc của mẹ già, vợ góa, con côi
trên khắp thành Hastinapura tang tóc. Yudshithira cúi đầu mà lên ngôi: “Quả là
đất nước đã về tay chúng con. Nhưng anh em thân thiết của con đã đi cả rồi.
Chúng con đã mất các con cái thân yêu. Chiến thắng này con xem như một thất bại
lớn”.Từ giọng điệu bi thống này định hình nên khái niệm quan trọng của Hindu
giáo là AHIMSA (bất tổn sinh – không làm tổn hại một sinh vật sống nào) nghĩa
là phủ nhận hoàn toàn đối với chiến tranh.
Theo đó, người anh hùng Ấn Độ đạt đến chiến thắng trên
chiến trường hoàn toàn chưa phải đã đến đích, thậm chí, còn là đã xa đích. Nên
họ còn phải tiếp tục lên đường. Và sử thi Mahabharata vì thế không thể dừng sau
chiến thắng của Pandava như Iliad có thể chấm dứt sau khi kể về chiến công của
Achille. Tác phẩm tiếp tục theo dõi các anh hùng của mình: ba mươi sáu năm cai
trị đất nước vẫn không nguôi ân hận, cuối cùng họ đã từ bỏ vương quốc mà cuộc
chiến tranh trước đó họ lấy làm mục đích, hành hương lên cao, cao mãi trên những đỉnh núi Hymalaya. Từ bỏ hoàn toàn
cuộc sống gia đình, từ bỏ xã hội, từ bỏ mọi dục vọng, ly viễn cái tinh thần
thuần khiết, trong sáng khỏi bản chất vật chất của thế giới. Từ người trẻ nhất
trong nhóm, Pandava lần lượt ngã xuống trên đường hành hương. Cuối cùng chỉ còn
một mình Yudhisthira tới được cõi trời. Chàng phẫn nộ khi trên thiên đường
chàng gặp toàn kẻ thù cũ, còn ở địa ngục lại là các anh em, bè bạn của chàng
đang chịu trăm chiều cơ cực. Nhưng đó cũng chỉ ảo ảnh, là thử thách cuối cùng.
Yuahisthira phải đi qua cả ba tầng thế giới để tỉnh ngộ rằng trên thiên giới
không có chỗ cho lòng hận thù. Anh ta phải vượt trên đối cực của yêu –ghét,
thành –bại, hạnh phúc –đau khổ, cũng có nghĩa anh ta phải đi tới giác ngộ bản
chất biến đổi, đoản mệnh của thế giới và định mệnh của con người là vượt qua
nó. Nghĩa là phải đi tới tuyệt đích MOKSHA (tức từ bỏ, cũng tức là giải thoát).
Nếu thời Veda, quan điểm chủ yếu của triết học –tôn
giáo Ấn Độ là nghiêng về bình diện trần thế, dựa trên cơ sở nghi lễ để thực
hiện, duy trì, bảo vệ trật tự xã hội thì đến thời đại sử thi, vấn đề đã có nhiều
thay đổi. Đã xuất hiện hai phong trào phê phán quan điểm Veda là đạo Jain và
đạo Phật. Cả hai tôn giáo này đều hướng nhiều hơn tới bình diện vĩnh cửu của
tồn tại con người, nhấn mạnh tuyệt đích MOKSHA (Giải thoát). NIRBANNA (Niết
bàn) chính là cảnh giới an lạc vĩnh cửu,
giải thoát khỏi sinh tử, khỏi mọi khổ đau, phiền não.
Vậy, khi nói về thời đại đầy xung đột của Mahabharata
chúng ta còn phải nhấn mạnh xung đột này nữa: xung đột giữa DHARMA và MOKSHA,
bổn phận và giải thoát, nhập thế và xuất thế. Với người Aán, con người vừa là
một sinh vật xã hội vừa là một sinh vật duy nhất có đời sống tâm linh. Là một
sinh vật xã hội, nó phải hoàn thành DHARMA của mình (tức bổn phận duy trì, bảo
vệ trật tự thế giới trần gian, thế giới vật chất nói chung và xã hội con người
nói riêng). Là một sinh vật duy nhất có đời sống tâm linh, nó tìm kiếm
MOKSHA (tức khát khao giải thoát khỏi
thế giới vật chất, giải thoát khỏi vòng sinh từ luân hồi).
Xung đột DHARMA- MOKSHA cũng được chủ quan hoá khiến
các nhân vật của Mahabharata luôn phải lưỡng phân trước đòi hỏi kép mà vận mệnh
con người đã giành cho họ.
Hai tình tiết trung tâm thể hiện sự căng thẳng giữa DHARMA với MOKSHA và cố gắng tìm kiếm
những giải pháp hoà hợp giữa hai đòi hỏi trái ngược nhau đò trong tinh thần người
anh hùng là:
(1). Sự lưỡng lự của Arjuna trước khi chiến tranh mở
màn.
(2). Sự bối rối của Yudhisthira về vấn đề cai quản vương
quốc hay từ bỏ thế giới sau khi chiến tranh kết thúc.
a.Sự lưỡng lự của Arjuna và thuyết giảng của Krishna:
Trước khi chiến tranh mở màn, nhìn sang bên kia chiến
tuyến thấy các thầy học, các bạn bè, họ hàng thân thích, hình dung chết chóc vô
nghĩa của họ, Arjuna đau buồn, tuyệt vọng, từ chối chiến đấu. (Chúng ta nhớ
Achille trong Iliad cũng từ chối chiến đấu với tinh thần phê phán cuộc chiến
tranh, tuy nhiên thái độ phê phán của mỗi anh hùng mang dáng vấp văn hóa khác
nhau). Arjuna muốn “rời bỏ xã hội”, cái xã hội đòi chàng phải thực hiện những
nhiệm vụ nặng nề, khổ ải. Chàng phủ nhận chiến tranh vì chiến tranh là phản lại
thế giới, đi ngược lại ý nghĩa của chính con người.
Vào lúc đó, Krishna đã khích lệ tinh thần Arjuna,
thuyết giảng cho chàng về hành động. Đối thoại giữa Krishna và Arjuna trở thành
“một bài thơ triết lí cỏ vẻ đẹp phi thường”, “một cuốn kinh vắn tắt nhất, thâm
thúy, hiền minh nhất của nhân loại”: Bhagavad Gita (Bài ca của Đấng Chí Tôn
–Chí Tôn Ca).
Krishna hiện lên trong tác phẩm với tư cách nhân
–thần, vừa là ông hoàng chiến sĩ vừa là hoá thân của thần Vishnu (thần Bảo vệ)
tham gia chiến tranh trong vai trò người đánh xe của Arjuna. Cỗ xe và người
đánh xe là hình tượng cặp đôi rất quen thuộc trong các kinh điển Hindu giáo
cũng như Phật giáo, cho thấy quan hệ của Krishna với Arjuna tượng trưng chủ yếu
là một hướng đạo tâm linh. Krishna và Arjuna tượng trưng cho Đức Thế Tôn và
Arjuna, Linh Hồn Vô THượng và Linh Hồn Nhân Thế. Khi Linh Hồn Vô Thượng sáng
lên trong Linh Hồn Nhân Thế, khi Con Người hoà nhập trong Đức Thế Tôn, Arjuna
giác ngô được ý nghĩa đích thực của cá nhân và vai trò xã hội, quay lại hành động.
Giải pháp của Bhagavad Gita nói vắn tắt là hành động
vô cầu. Chìa khóa đối với sự giải thoát khỏi nghiệp chướng không phải sự khước
từ hành động mà là sự thực hiện hành động với một tri kiến thích đáng. Bởi vì
chính dục vọng làm dấy lên hành động mới gây ra sự trói buộc của nghiệp, giải
thoát khỏi nghiệp vì vậy, liên quan đến , trước hết là sự từ bỏ, sự kiểm soát
những dục vọng ích kỉ, cá nhân. Arjuna phải chiến đấu như thể chàng là vũ khí
trong tay Đấng Bảo Vệ Vũ trụ, xuất hiện mỗi lần thế giới nguy nan, để tiêu diệt
cái ác, bảo vệ thế giới. Bằng cách sống đời mình như một tặng vật cho Đấng Chí
Tôn như thế, chàng được hành động vô cầu và vậy là đồng thời vừa thực hiện được
DHARMA vừa thực hiện được MOKSHA.
b. Sự bối rối của Yudhisthira và cuộc từ bỏ thế giới được
hoãn lại.
Hậu quả đau buồn của cuộc chiến tranh khiến
Yudhisthira, giống như Arjuna trước đây, đau buồn, tuyệt vọng, muốn từ bỏ thế
giới để tìm kiếm sự giải thoát trong rừng sâu.
Sau đó là cuộc tranh luận giữa Yudhisthira với bốn em
trai của chàng và người vợ chung Draupadi của họ. Thực chất là sự cọ xát giữa
hai quan điểm Bàlamôn và Kshatriya về xung đột giữa DHARMA và MOKSHA.
Cuối cùng, Yudhisthira bị thuyết phục đã từ bỏ nỗi
buồn đau thất vọng và cai quản vương quốc. Một trong các cố vấn của chàng nêu
lên rằng từ bỏ thế giới trước khi hoàn thành trách nhiệm đối với xã hội, trước
đã già là không tự nhiên và không hợp truyền thống. Yudhisthira như vậy không
bị thuyết phục bởi tính hơn hẳn của thế giới trần gian mà chỉ bị thuyết phục
bởi sự cần thiết của nó. Từ bỏ xã hội đối với chàng vẫn là con đường cuối cùng
dẫn tới giải thoát và chàng bị thuyết phục để làm vua, bảo vệ trật tự thế giới
chỉ vì con đường ấy sẽ trì hoãn lại đến một thời gian thích hợp hơn mà thôi.
Kết thúc tác phẩm, khi Yudhisthira đã già và cai quản đất nước nhiều năm, chàng
từ bỏ thế giới đúng như mong muốn của chàng sau khi kết thúc chiến tranh.
Giải pháp, với Yudhisthira, để hoà giải xung đột
DHARMA _MOKSHA như vậy là một giải pháp rất phổ biến của truyền thống Hindu. Nó
được trình bày trong mọi sách Luật (Manu) của Hindu giáo trong thời gian gần
đồng thời với thời gian của Mahabharata. Cuộc đời lí tưởng được miêu tả như có
bốn giai đoạn (ASHRAMAS): (1) BRAHMACHARYA, (2) GRIHASTHA, (3) VANAPRASTHA, (4)
SANYASA. Trong hành trình cuộc sống từ sinh đến tử, hai giai đoạn đầu, con người
phải tu dưỡng học tập, làm chủ gia đình, tìm kiếm của cải và hưởng thụ hạnh
phúc vợ chồng, sinh con đẻ cái, phục vụ xã hội bằng cách thực hiện DHARMA của
mình. Hai giai đoạn cuối, giai đoạn tu luyện khổ hạnh trong rừng và giai đoạn
gạt bỏ hoàn toàn mọi dục vọng, từ bỏ thế giới, anh ta phải tiến tới nhận thức
và thực hiện định mệnh vĩnh cửu của mình là giải thoát (MOKSHA).
5.
Những anh hùng nửa trần tục-nửa thần linh của Mahabharata
Chúng
ta nói đến những anh hùng nửa trần tục-nửa thần linh của Mahabharata không chỉ
vì họ là con của một người cha thần thánh và một bà mẹ trần tục. (Achille trong
Iliad cũng là con của một người mẹ thần linh và một người cha trần tục). Mà chủ
yếu vì Mahabharata đã thể hiện họ vừa cao thượng vừa thấp hèn, luôn luôn trong
cuộc đấu tranh bản thân giữa DHARMA và ADHARMA –Đạo lí và Phi đạo lí, vừa chịu
lực hút mãnh liệt của trái đất trần tục này vừa hướng tới thiên giới tâm linh
vời vợi cao trên kia, luôn luôn giữa hai đòi hỏi trái ngược DHARMA và
MOKSHA-Bổn phận và giải thoát, Nhập thế và Xuất thế-Có cảm giác là so với
Iliad, các anh hùng của Mahabharata “văn minh” hơn hẳn. Dù rằng,v iệc các anh
hùng đôi khi đắm chìm trong suy tư, chiêm nghiệm hơn là thể hiện nhiệt tình
hành động cũng bộc lộ bản tính “yếu đuối” không dễ dàng biện hộ của họ.
Mahabharata đã cống hiến cho gia tài chung các anh hùng ca cổ điển của thế giới
kiểu mẫu “anh hùng suy tư” “anh hùng –đạo sĩ” rấtẤnĐộ, rất phương Đông.
Để lí giải vấn đề, chúng ta cần chú ý rằng trong quá
trình sáng tác –diễn xướng-lưu truyền-sửa chữa, bổ sung để hình thành nên văn
bản tác phẩm cuối cùng đến với chúng ta hiện nay, bên cạnh những điểm tương
đồng, Mahabharata có khác biệt so với Iliad. Điểm tương đồng nằm ở chỗ dưới cái
tên một tác giả cá nhân mang đầy màu sắc huyền thoại: Vyasa hoặc Homer, cả
Mahabharata lẫn Iliad, thực ra, đều là công trình của một tập thể đông đảo các
tác giả vô danh qua nhiều thế hệ. Còn khác biệt quan trọng là câu chuyện chiến
tranh của các anh hùng bộ lạc, các anh hùng dân tộc làm cốt lõi đầu tiên cho sử
thi Mahabharata cũng như Iliad đã được các thế hệ thi sĩ, văn sĩ, nói tóm lại
là nghệ sĩ, bồi đắp, trau chuốt, thì trong trường hợp của Mahabharata lại được
các thế hệ tu sĩ Brahmana (là đẳng cấp có độc quyền trong xã hội Ấn Độ về lĩnh
vực tư tưởng, tri thức, sách vở) nắm lấy, tái tạo và bổ sung. Các tu sĩ
Brahmana đã dựa vào câu chuyện anh hùng, sắp xếp lại, sửa chữa lại, đem nó gắn
liền với cảm quan tôn giáo, đạo đức. Cái hùng theo quan điểm Võ sĩ quí tộc Kshatriya
đã được uốn nắn trong tương tác với cái hùng theo quan điểm Tăng lữ Brahmana.
Mahabharata trở nên một sự hoà trộn giữa hai truyền thống lớn trong văn học
Aán: (1) truyền thống Sruti (tạm dịch là truyền thống Thần khải, bao gồm các
tác phẩm văn chương –tôn giáo, sản phẩm tinh thần của giới tu sĩ, văn chương hướng
tới con người trong quan hệ thần thánh, con người cùng khát vọng tâm linh của
mình) (2) truyền thống SMRITI (tạm dịch là truyền thống Nhân văn hay truyền
thống Thế tục, bao gồm các tác phẩm văn chương –sản phẩm tinh thần của
Kshatriya và các đẳng cấp khác thuộc quần chúng nhân dân, văn chương hướng tới
con người trong quan hệ với cuộc sống trần gian, con người mang những bổn phận
xã hội).
Kết quả là từ câu chuyện cốt lõi có đề tài điển hình
sử thi trong văn bản ban đầu chỉ có chừng 884 sloka và thuộc thể loại DJAJA
(Truyền thoại về chiến thắng của các Kshatriya) Mahabharata đã dần dần phát
triển đầy đặn hơn đến văn bản 24.000 sloka thuộc thể loại TIHASA và cuối cùng,
khi đến với chúng ta ngày nay, với 110.000 sloka nó không còn chỉ là một sử thi
anh hùng mà đúng hơn là một sử thi anh hùng –thuyết giáo, một bộ bách khoa toàn
thư. NgườiẤncó câu cách ngôn nổi tiếng: “Cái gì không có trong Bharata (cũng
tức là sử thi Mahabharata) thì cũng không tìm thấy ở đâu trên xứ sở Bharata”
(tên gọi của đất nướcẤnĐộ). Từ đây, chúng ta có thể hiểu được tính chất đặc
biệt rộng lớn trong tầm khái quát hiện thực, khái quát lí tưởng sống của
Mahabharata.
Sử thi Ấn Độ, cũng như văn học Ấn Độ nói chung, mang
đậm màu sắc tôn giáo và triết học. Một mặt ràng buộc chặt chẽ với tất cả những
khổ lụy, biến ảo vô thường, bất tuyệt của thế giới trần gian này, mặt khác, tư
duy người Ấn luôn vươn tới cái chân lí, cái vĩnh hằng, cái duy nhất. Sử thi
Mahabharata là một truyện lớn và kì diệu theo ý nghĩa đó. “Những đau buồn của
cuộc sống nhân gian được mô tả với mộtvẻ đẹp cao cả và nó diễn ra trên một toàn
cảnh lớn. Đằng sau câu chuyện về những lầm lạc và đau khổ, nhà thơ chúng ta có
một ảo tưởng về cõi Thực và cõi Thiên tiên”.
6.Giá trị
nội dung và nghệ thuật:
Chủ đề của tác phẩm vĩ đại này là cuộc chiến tranh lớn
giữa dòng họ Bharata để giành giật đất đai và mở rộng bờ cõi.Nhưng xung quanh
chủ đề đó lại có một nội dung tư tưởng vô cùng rộng lớn và sâu sắc.
Những
người sáng tạo ra bộ sử thi này muốn thông qua chiến tranh để đề cao lý tưởng
và đạo đức của thời đại.Lý tưởng và đạo đức đó đã được đúc kết trong tập giáo
lý Bhagavat Gita.Nhiều nhà nghiên cứu sử thi Mahabharata cho rằng Bhagavat Gita
là hạt nhân tư tưởng của tác phẩm Mahabharata.
Vì vậy
chiến thắng của anh em Pandava được xem là sự chiến thắng của đạo đức và công
lý.Hành động của họ đã hoàn thiện được bổn phận và danh dự mà Đacma đề ra.
Ở đây
chúng ta không cần đi sâu vào phương diện triết lý mà chỉ đề cập đến ý nghĩa
lịch sử của tác phẩm
Chiến
tranh xảy ra trong vòng 18 ngày để cho hàng triệu người chết là biểu hiện sự
suy tàn của chế độ huyết thống trong công xã,đòng thời biểu hiện sự phát triển
và hưng thịnh của nhà nước nô lệ
Lúc đầu
anh em Côrava và Panđava đang sống chung binh đẳng với nhau trong vương quốc
Haxtinapura của mình,nhưng sau đó xung đột về quyền lợi đất đai và nô lệ mà anh
em Panđava tách ra để thành lập vương quốc Inddraprasa riêng.Đó là biểu hiện sự
ra đời và phát triển của nhiều vương quốc,chế độ dân chủ bộ lạc mất dần,thay
thế vào đó là chế độ quân chủ quân sự
Vương
quốc nào củng muốn mình hùng mạnh và phồn vinh,điều đó lại đẻ ra xung đột
mơi,những xung đột đó thường thường được giải quyết bằng chiến tranh để thống
nhất và mở rộng ra nhiều quốc gia lớn.Anh em Panđava chiến thắng,trở lại thống
trị vương quốc Haxtinapura rộng lớn hơn là biểu hiện như vậy.
Sự thắng
lợi của anh em Panddava thuộc đẳng cấp võ sĩ quý tộc Ksatrya củng nói lên một
đặc điểm là sự thống trị xã hội giờ đây không thuộc đẳng cấp Brahman nữ,mà tiêu
biểu cho xã hội mới là võ sĩ quý tộc Ksatrya.Muốn thực hiện tư tưởng thống trị
mới phải tiêu diệt những phản ứng của dân chủ bộ lạc và chinh phục những vương
quốc yếu
Anh em
Côrava và Panđava trong nội bộKsatrya xâu xé nhau về quyền lwoij thông qua
chiến tranh cũng nói lên sự tan rã các phương thức sản xuất dựa trên cơ sở
huyết thống.Mâu thuẩn đó chi phối toàn bộ xã hội ngày càng sâu sắc.
Quy mô
của cuộc chiến tranh trong Mahabharata đã phá vỡ dần nền văn minh nô lệ đại
thịnh,đã kéo sự phát triển của xã hội Ấn Độ cổ đại chậm lại.Chiến tranh tàn
khốc đã giáng vào đầu nhân dân nô lệ,gây ra đau khổ tội lỗi cho họ “Tiếng khóc
của các phụ nữ trên cánh đồng Curu” ở cuối tác phẩm đã nói rõ điều đó.
Trong bối
cảnh xã hội đầy rẫy những mâu thuẫn,tội ác xuất hiện ngày càng nhiều qua những
cuộc giành giật quyền lợi,số phận con người bị giằng xéo trong chiến tranh loạn
lạc,một “Tinh thần Ấn Độ” nổi lên,đó là tinh thần nhân văn.Tinh thần nhân văn
được nảy nở từ trong những sáng tác dân gian có trước đó ở khắp miền đất nước
được thu hút vào bộ sử thi này.
Duy trì
và biểu hiện tinh thần nhân văn mà chủ yếu là nội dung Đacma sống phải
thiện.hòa hợp,bình đẳng,bác ái,là một đặc điểm nổi bật trong Mahabharata.
Tinh thần
nhân văn này ra đời từ thời kỳ xã hội nguyên thủy trên cơ sở xã hội chưa có
giai cấp.Sau này khi quốc gia nô lệ hình thành,tư tưởng Đacma(tư tưởng tư
hữu)của phong kiến xuất hiện lấn át tư tưởng Đacma .Tư tưởng Đanđa tôn trọng
quyền tư hữu,phát triển chế độ phụ quyền.Lấy sức mạnh quân sự và quyền lực của
giai cấp thống trị thuộc đẳng cấp Ksatrya và Brahman để đàn áp xã hội.
Trước đây
khi giải quyết những bất hòa,những xung đột và các quyền lợi khác thì quần chúng
làm trọng tài phân xử,nhưng giờ đây do kẻ thống trị nắm quyền hành quyết định
Mahabharata
đã phản ánh mâu thuẩn đó,Một bên giai cấp thống trị muốn xây dựng hệ thống tư
tưởng Đanđa đẻ bảo vệ quyền lợi của họ.Một bên nhân dân lại muốn duy trì truyền
thống tinh thần Đacma.Mặc dầu giai cấp thống trị tìm mọi các đảo lộn truyền
thống đó nhưng không thể nào thắng được sức mạnh và tinh thần của nhân dân.Cuối
cùng buộc họ phải tuyên bố:”Thiên hạ và cuộc đời tiếp tục tinh thần Đacma”
Hình ảnh
của anh em Yuhi từ bỏ ngôi báu của mình sau 36 năm trời để trị vì cùng nhau
hành hương lên Cõi Trời tìm chốn Vĩnh Hằng để sám hối,nói lên sự thắng thế của
tinh thần Đacma.Khát vọng của nhân dân đương thời
Lí tưởng
và đao đức trong Mahabharata được thể hiện qua hành động và tính cách của năm
anh em Panđava và một số nhân vật khác như Krixna,Bhima…..
Mỗi nhân
vật mang một tính cách ,một đời sống tinh thần riêng chứ không phải là nhân vật
mang tính ước lệ,có khuôn mẫu sẵn đã từng thấy ở một số truyện dân gian khác
Yuhi đức
độ,sáng suốt,Acgiuna dũng cảm kiêu hùng,Bhima xông xáo,sôi nổi quyết giửu trọn
lời thề cho đến chết,Kacna hùng dũng và kiêu căng,Krixna tài trí siêu việt,còn
Đơrita tuy mù nhưng vẫn oai nghiêm trong cốt cách một ông vua vừa gian hùng vừ
xảo quyệt…Mỗi nhân vật đều để lại một ấn tượng khó quên trong tâm hồn người
đọc.Roomet Đơt nhận xét rằng:”Trừ tác phẩm Iliat ra không có tác phẩm nào mà nghệ thuật miêu
tả nhân vật phong phú và chân thật như Mahabharata.Nhân vật không đau khổ dằng
vặt như nhân vật của Đante.không say mê cực độ như nhân vật của Seecxpia,trái
lại các nhân vật đều phản ánh tính cách uy nghiêm,trầm lặng của sức mạnh tinh
thần chẳng khác gì những hình tượng bất hủ bằng cẩm thạch từ thời xưa để lại mà
các nghệ sĩ điêu khắc ngày nay không tài nào mô phỏng được
Đọc
Mahabharata,người đọc còn bị lôi cuốn vào quang cảnh của chiến tranh tràn ngập
hào khí,sôi động.Người đọc sẽ say mê đến mức hồi hộp theo giõi những trận giao
tranh ác liệt xảy ra trong 18 ngày liền.Cảm xúc càng tăng lên khi chiến tranh
tiến dần đến ngày kết thúc,khi các tướng lĩnh dũng mãnh nhất dần dần ngã gục ở
chiến trường
Một nhà Ấn
Độ phương tây cho tằng:”Trong văn học thế giới,có lẽ khó tìm thấy,những đoạn
văn miêu tả cảnh chiến tranh đặc sắc như vậy”.
Cuộc đo
tài đọ sức khá sôi nổi của các dũng sĩ khắp bốn phương đến cầu hôn Đrôpađi,cuộc
đụng độ nảy lửa giữu hai chàng dũng sĩ Acgiuna và Kacna,hai nhân vật được ví
như Asin và Hecto trong thần thoại Hi Lạp;tình cảm và thái độ phản kháng mãnh
liệt của nàng Đrôpađi khi nàng bị anh em Côrava định chiếm đoạt sau ván cờ bất
hạnh của Yuhi khiến chi cả thần linh củng phải xúc đọng và can thiệp vào.Những
đoạn văn đó có một sức truyền cảm đến người đọc rất sâu sắc
Mahabharata
là tác phẩm vĩ đại có thể coi là “Bách khoa toàn thư”về đời sống văn hóa,chính
trị và xã hội Ấn Độ cổ đại.Tác phẩm chứa đụng sự kiện lịch sử ,những tín ngưỡng
tôn giáo ,những tập quán sinh hoạt của toàn thể dân tộc Ấn Độ suốt từ chân núi
Himalaya hùng vĩ cho tới vịnh Banggan tràn ngập ánh nắng.Sự phong phú về nội
dung đó,đã được nhân dân Ấn Độ thừa nhận trong một câu tục ngữ của mình
rằng:”Cái gì không thấy trong Mahabharata thì củng không thấy có trên đất Ấn
Độ”
Biruni,nhà Ấn Độ có cuốn sách mà mình tôn kính đến mức
khẳng định dứt khoát rằng,dường như tất cả những gì có trong sách khác thì chắc
chắn có trong cuốn sách này.Tất cả có gì trong sách này thì không có trong sách
khác.Người ta gọi đó là Mahabharata”
Do nội
dung phong phú mà những người sáng tạo ra tác phẩm vĩ đại này đã đem vào nhiều
hình thái thần thoại,cổ tích,trường ca,những bài ca giáo huấn,kinh kệ ,những
tác phẩm triết lí,nghệ thuật….tạo ra một
lối kết cấu khác biệt với những bản anh hùng ca khác
Có người
cho rằng lối kết cấu truyện dài lồng khung trong Mahabharata đã tạo ra sự phức
tạp của nó.Trong Mahabharata người ta
tìm thấy nhiều đoạn lặp lại,có chỗ mâu thuẫn,có truyện không liên quan đến toàn
bộ tác phẩm
Mặc dầu có
nhược điểm đó,nhưng nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Mahabharata là một tác phẩm
mẫu mực về quy tắc của anh hùng ca
II. Tôn
giáo:
1. Vài nét
về tôn giáo Ấn Độ:
Ấn Độ là mảnh
đất màu mở cho tôn giáo phát triển. Đạo Bàlamon ra đời đầu tiên , do tăng lữ
Bàlamon thành lập và tuyên truyền học thuyết vạn vật bất di, bất dịch do đó xã
hội có giai cấp có giàu nghèo, vua tôi chủ tôi là chuyện đúng lẽ phải. Nỗi đau
trên đời là tạm thời không đáng quan tâm và cuộc đời là hư ảo, chỉ có đấng
Brahama mới có thực. Đạo Balamon tuyên truyền thuyết luân hồi, người chết sẻ
biến ra kiếp khác. Buộc con người phải sống đúng đạo Đharma, không được kêu ca,
ghen ghét kẻ giàu sang. Đó là thứ giáo lí duy trì quyền lực của tầng lớp thống
trị. Sau này đạo Balamon trải qua nhiều cải cách thành đạo Hinđu tức là Ấn Độ
giáo ngày nay.
Đạo
Gien(Jain) do Mahavira sáng lập, duy trì một số bất công trong xã hội làm cho
một số đẳng cấp vương quốc, quý tộc bất mãn, tìm cách chống đối. Nhiều người tự
ý rời bỏ cuộc sông giàu sang đi tìm nơi ẩn dật trong rừng sâu. Đạo Gen phủ nhận
quyền uy của kinh Veeda, chống chế độ đẳng cấp và đâọ Balamon, chủ trương không
tế lễ, coi vạn vật vừa có vật chất vừa có linh hồn, không nói dối không sát
sinh…Ngày nay ở Ấn Độ người theo đạo Gen chỉ còn khoảng )0,5% dân số.
Đạo Phật:
Sau nhiều
năm đi tìm chân lí Xitđacta đã ngộ đạo dưới cây bồ đề vùng Booddigana, sau đó
đạo Phật được truyền khắp nơi. Giáo lí
Phật cho rằng: cuộc đời là bể khổ. Tội ác của xã hội là dục vọng của con người.
Dục vọng thì vô hạn, phải tiêu diệt dục vọng để kiếp sau đến được cõi Niết Bàn.
Với quan niệm đó, đạo Phật chủ trương bình đẳng chúng
sinh, phản đối chế độ đẳng cấp mà đạo Balamôn duy trì.
Đạo Hinđu( Ấn Độ giáo): trước sự thắng thế của đạo
Phật, đạo Balamôn phải cải cách, biến thể thành đạo Hinđu, hấp thu một phần
giáo lí và đạo đức của Phật, tin vào luật nhân quả và luân hồi. Đạo Hinđu cho
rằng con người và vũ trụ trải qua 3 giai đoạn sinh – trưởng- diệt. Nhất thể hóa
ba vị thần tượng Brahama (thần Sáng Tạo)- Vism (thần Bảo Vệ)- Siva (thần Hủy
Diệt).
Ngoài bốn tôn giáo chính kể trên, ở Ấn Độ còn một số
tôn giáo khác sản sinh từ các địa phương hoặc các tín ngưỡng khác như đạo Xích
(Sick), đạo Yoga…
2. Tôn giáo
trong sử thi Mahabrahata
Tôn giáo trong sử thi Mahabharata là Hindu giáo.
a. Con người
như là cái nghiệp:
Tôn giáo
coi cuộc sống con người như là cái nghiệp (Karma), chỉ có cái chết mới là vĩnh
cửu, linh hồn mới là chính chứ không phải thể xác, cái kiếp sau mới là vô tận
chứ kiếp này chỉ là phù du.
Yudhisthira khi còn sống làm vua mà chẳng cảm thấy vui
sướng, chỉ khi hình hài đã mất được lên cõi cực lạc mới tìm thấy yên vui thực
sự.
Bhisma
“Thân thể Bhisma không đụng tới đất vì những mũi tên đang cắm khắp mình ông.
Thân thể ông càng sáng hơn bao giờ hết khi ông nằm như vậy, như trên chiếc
giường danh dự. Quân đội hai bên thôi không còn giao tranh nữa, tất cả các
chiến binh chạy tới và đứng quanh bậc anh hùng vĩ đại nằm trên chiếc giường
bằng các mũi tên. Các bậc vua chúa trên cõi trần đứng cúi đầu quanh ông chẳng
khác các thần chầu, quanh đấng Bàlamôn”, ông đã “lấy máu mình khiến cho bãi
chiến trường thành nơi vinh hiển”.
Ngay cả Duryodhan, người mà bao nhiêu sinh linh đã vì
y bỏ mạng thì khi y chết “các chư thần tung hoa xuống người dũng sĩ đang hấp
hối, người nhà trời tấu nhạc và bầu trời rực sáng”, “bây giờ ta chết, cái chết mà các dũng sĩ cho là cái tột đỉnh trong cuộc
sống của người Kshatriya. Ta về trời, còn ngươi (nói với Krisna) và bạn bè của
ngươi sẽ sống trong cõi đòi này và chịu đựng đau khổ, sầu não…thử hỏi có ai
phúc hơn ai?”.
b. Số phận con người:
Sử thi Ấn
Độ kế thừa một kho tàng thần thoại phong phú của Rig Veda nhưng là thần thoại
của giai đoạn sau, đã được biên soạn lại bởi các nhà thần học. Thần thoại đã
trở thành một yếu tố cấu thành của hệ tư tưởng tôn giáo nên những yếu tố thế
tục hồn nhiên các chất người phàm tục và cao thượng, anh hùng và hèn nhát vốn
gần gũi với cuộc sống trong thần thoại bị thanh lọc đi, bị đưa ra ngoài biên
chế của tôn giáo. Tôn giáo chỉ giữ lại sự sợ hãi, sung bái những kiếp nhược và
cam chịu của con người trước thần thánh.
Tôn giáo can thiệp thô bạo đến số phận con người. Tất
cả đểu do thần linh định đoạt “định mệnh
mạnh hơn cố gắng của con người”.
Các thần có mặt trong những hoạt động của con người
nhiều hơn hay trong một trận đánh, một tình huống hay trong suốt cả cuộc chiến
tranh những anh hùng Padava đều có thần giúp đỡ. Krishna, hiện thân thứ 8 của
thần Vishnu ( thần bảo vệ ) luôn theo sát Arjuna và là người đánh xe cho Arjuna
trong chiến trận Kurukshetra. Chính người Ấn Độ lại là hóa thân của các vị thần
hay là con cái của các vị thần. Như vậy thế giới thần linh trong sử thi Ấn Độ
đã chi phối sâu sắc đến đời sống con người.
c. Chịu
đựng là trắc ẩn:
Sự chịu
đựng là trắc ẩn, là chân lý, là hi sinh, là danh tiếng của tôn giáo. Toàn vũ
trụ dựa trên sự chịu đựng.
Yudhishthira chấp nhận lưu đày. Arjuna khi
chiến thắng đã cầm chắc trong tay vẫn thiết tha kêu gọi giảng hòa.
Yudhishathira đau buồn và ăn năn hối hận vì việc đã giết chết những người anh
như bà con đến mức quyết định rời bỏ cuộc đời trần tục, đi vào rừng sám hối tội
lỗi.
Tôn giáo Ấn Độ đều hướng vào sự vô vị nhẫn
nhục. Các thuyết luân hồi vô thường vô ngã cũng như nhân quả nhân duyên của đạo
phật đều cho rằng cuộc đời là vô ngã, vô sơ, nhân sinh là vô thường. Mọi cái kể
cả kiếp người đều trôi qua trong nháy mắt, mọi công danh phú quý đều nhanh
chóng tiêu tan chỉ có nghiệp Karna là vĩnh viễn tồn tại, nghiệp ấy bền là do
quá trình tu nhân tích đức, tránh ác phục thiện của con người. Con người nhẫn
nhục là mẫu người lý tưởng mà sử thi Ấn Độ hướng đến.
Như
vậy, đối với người Ấn Độ đức nhẫn là gốc rễ là ngọn nguồn để có một cuộc sống
tốt đẹp.
d. Đạo lý Dharma ( bổn phận )
* Khát
vọng hòa bình, giải thoát và lý tưởng công bằng bác ái.
Chiến thắng của anh hùng Panđava được xem là
sự chiến thắng của đạo đức và công lý Dharma đề ra.
Chiến trường Kurukshetra vừa là thánh địa biểu
dương sức mạnh hùng cường của những chiến binh lẫm liệt, vừa là một sự kiện vĩ
đại của bi tráng và hào hùng là nơi đạo đức bị tha hóa ánh sáng và bóng tối
đang đấu tranh quyết liệt. Yudhisthira khóc than đến xé lòng tác động sâu sắc
vào tâm linh người đọc.
Trong cuộc
hành hương lên cõi trời người anh hùng dần nguôi quên khổ đau oán hận, trút bỏ
mọi ràng buộc trần thế, đạt đến độ siêu thoát thanh tịnh. Nhưng khi cõi tục lụy
đã lùi xa, người anh hùng tưởng đã rũ sạch bụi trần mà vẫn chưa mở được cánh
cửa trời. Thần Dharma vẫn còn thử thách con trai mình. Và nơi chốn thanh cao
yên tĩnh ấy vẫn là một Yudhishathira đạo cao đức trọng. “Tôi không muốn ở trên cõi đời,
bởi đối với tôi ở đây mà xa các anh hùng thì có gì là hay là tốt; chỗ nào họ
đang ở thì chỗ ẫy là cõi cực lạc của tôi chứ không phải ở đây”.
Thế là
Yudhishathira đã đi đến tận cùng những khổ đau của đời người, đã hiểu nguồn cơn
chu trình sinh tử hiểu bản chất cuộc sống và hiểu con đường giải thoát mọi vòng
sinh tử là hòa hợp khoan dung là yêu thương tha thứ. Đó là lẽ Dharma tinh thần
Ấn Độ, là triết lý vĩ đại ngàn đời vẫn còn lung linh vẫn còn vẫy gọi con người
chiến thắng bản năng, khắc phục những cám dỗ phàm trần vượt tới tuyệt đích tâm
linh.
* Hành động vô cầu
Hành động vô
cầu là hành động không có mục đích và lý tưởng vì mục đích và lý tưởng nằm
trong Dharma. Đó là một hành động vị kỉ, không vì lợi ích cá nhân và những kết
quả vật chất tầm thường.
Hành động quên nỗi hiểm nguy của bản thân để tiêu diệt
cái ác cứu đời của Bhisma mang lại cho nhân vật vẻ đẹp cao cả. Hành động của
Bhisma mang tính nghĩa hiệp là sự thực thi bổn phận của đẳng cấp chiến binh
Kshatriya, thanh trừ điều ác bảo vệ điều thiện, thiết lập sự hài hòa cho cuộc
sống trên thế giới.
Bhisma đã luôn
hành động cao thượng, cuộc đời Bhisma là cuộc đời một con người đã hành động
không mệt mỏi để giữ gìn niềm tin vào lẽ Dharma ung dung nằm trên chiếc giường
bằng mũi tên chứng kiến trận đánh cho đến khi kết thúc.
Yudhisthira chọn thiên đường ngay giữa những
người thân Duryodhana đã sống một cuộc đời không ít lầm lạc nhưng cuối cùng lại
khước từ mọi tham vọng đất đai, quyền lực, của cải mọi vinh hoa để xứng đáng
với đẳng cấp chiến binh “chết vinh còn hơn sống nhục”, chọn con đường giao đấu
để đi trọn đạo lý Dharma.
Nhân vật hành động theo số phận, luôn nuôi
sống với bổn phận bị ràng buộc bởi lời nguyền, hành động người Ấn Độ không được
tự do. Bhisma “Ông không phải là người tự do hoạt động, ông bị ràng buộc vì lời
thề với đức vua và phải chiến đấu bên cạnh anh em Kaurava. Bhisma không thể
phản bội Duryodhana để về với anh em ruột thịt vì đã nguyện sống có lý tưởng
bên người con trưởng chi Kaurava.
* Cái chết:
Chết là hành
động bổn phận theo quan điểm của Hindu giáo cho mỗi người tùy theo đẳng cấp của
mình mà có một chủ nghĩa xã hội riêng và anh â phải phục vụ và duy trì xã hội
như một tổng thể bằng cách thực hiện đầy đủ tinh thần bổn phận, nhiệm vụ đó của
mình. Chúng ta hiểu vì sao mà thương tổn, hi sinh luôn được miêu tả đẹp đẽ, thơ
mộng, thậm chí sáng ngời trong khi cảm hứng hiếu chiến hoàn toàn không phải là
cảm hứng chủ đạo của sử thi này.
Từ kinh “Rig
Veda” cho đến sử thi Mahabarata , người Ấn Độ cho rằng sau khi chết người ta
lên trời. Ở đó “Muốn gì được nấy, mặt trời
sáng chói, hoa quả dồi dào, rượu,
sữa, mật, tiếng đàn sáo ca hát không ngừng” (Thần thoại Ấn Độ). Như vậy,
chết đi là con người được về với cõi cực lạc, xứ sở của thần tiên, nơi đó không
có chỗ cho lòng hận thù.
3. Ý nghĩa
của vấn đề tôn giáo trong sử thi Mahabrahata
Sử thi Ấn Độ nói chung và Mahabharata được coi
là những sáng tác chính thức và những sử thi có “hình thức cổ điển lẫy lừng một
thời trong lịch sử thế giới. Nó trở thành bộ bách khoa toàn thư, những đài kỉ
niệm, những thánh kinh của một dân tộc, hướng con người đến một cuộc sống tốt
đẹp, đấu tranh bảo vệ cho cuộc sống tốt đẹp.
Những anh em
Pandava tiêu diệt họ hàng đâu phải là mục đích. Cái họ phấn đấu là thực hiện
trọn vẹn nội dung của lẽ Dharma sống thiện căn, hòa hợp bình đẳng, bác ái.
Gần 30 thế kỉ trôi qua, bao thế hệ đã đọc, đã có những
cảm nhận riêng về Mahabharata. Mahabharata là tác phẩm lớn nhất trong kho tàng
văn học cổ đại Ấn Độ. Mahabharata mô tả cuộc sống đau buồn của cuộc sống dân
gian với một vẻ đẹp cao cả và diễn ra trên một hoàn cảnh lớn. Chính những giá
trị đạo đức cao cả vĩnh hằng đã khiến cho sử thi Mahabharata trở thành tượng
đài bất tử, tồn tại ngoài dòng chảy của thời gian, đăng quang cho cái đẹp, cái
thiện trên cõi đời. Sử thi là một thể loại văn học một đi không trở lại nhưng
cảm hứng sử thi hướng tới sự cao cả thiêng liêng và kỳ diệu, mãi mãi là kiệt
tác sáng tạo nghệ thuật muôn đời.
Đạo Balamôn
thịnh hành từ khoảng 1500-500 năm TCN, gắn liền với sự phân hóa xã hội ban đầu
với chế đẳng cấp (Varna) và với tín ngưỡng giáo điều: Con người phải tuân theo
Đạo giáo.
(Dharma) trong đó con người có sự luân hồi do nghiệp
chướng từ kiếp trước. Nói cách khác, mỗi con người có số phận và phải chấp nhận
số phận do thần thánh an bài.
Khoảng 500 năm TCN, tình hình Ấn Độ có nhiều
biến đổi. Xã hội có sự phân hóa sâu sắc hơn lồng trong cả sự phân biệt đẳng
cấp. Casta khắc nghiệt hơn. Sự phân biệt giàu nghèo làm tăng lòng ham muốn và
cũng tăng nỗi thất vọng. Sự phân biệt đẳng cấp lại khơi sâu sự cách biệt, chà
đạp nhân phẩm. Những điều đó dẫn đến toàn cảnh “Nước mắt chúng sinh chứa đầy ba biển lớn, nỗi đau khổ của con người
tràn ngập khắp nơi”.
Tôn giáo Ấn Độ lúc bấy giờ kêu gọi con người nghe
và thực hiện những lời dạy Dharma: con người sống với số phận của mình, hành động
theo đúng bổn phận của mình, đẳng cấp của mình. Con người sống hướng thiện,
bình đẳng, bác ái, hòa bình với nhau để cùng nhau đấu tranh chống lại cái ác,
phi đạo đức.
Phần III: Kết luận
“Nếu một vật gì đẹp cần phải giữ gìn, lấy nó
làm mẫu mực, phỏng theo nó dẫu nó có cũ đi nữa. Tại sao lại ngoảnh mặt đi không
muốn nhìn một vật thực sự là đẹp, tại sao lại không lấy nó làm bước phát triển
của tương lai”.(VI Leenin khi nói về các giá trị truyền thống). Quay về với
truyền thống là quay về với cội nguồn. Tinh hoa nhân loại còn lại đến ngày nay
phải kể đến trước tiên là những bộ sử thi vĩ đại như Iliat, Odysee của phương
Tây, Mahabrahata, Ramayana của phương Đông. Đó cũng chính là sự trở về với
những tinh hoa bất hủ thời kì bình minh của lịch sử loài người.
Một nhà
nghiên cứu về văn học Ấn Độ nhận định “Trừ tác phẩm Iliat ra không có tác phẩm
nào mà nghệ thuật miêu tả nhân vật sâu sắc và phong phú như Mahabrahata. Nhân
vật không đau khổ dằn vặt như nhân vật của Đantê, không say mê cực độ như nhân
vật của Sếcxpia, trái lại các nhân vật đều phản ánh phẩm chất uy nghiêm trầm
lặng của sức mạnh tinh thần, chẳng khác gì hình tượng bằng đá cẩm thạch từ thời
xưa để lại mà các nghệ sĩ điêu khắc ngày nay không tài nào mô phỏng được.
Ngoài giá trị văn học Mahabrahata còn được coi
là một bộ bách khoa toàn thư của Ấn Độ vì nó cung cấp cho chúng ta nhiều hiểu
biết về đời sống văn hóa xã hội, kinh tế, chính trị, quân sự… của các đân tộc
Ấn Độ từ 3000 năm về trước. Vì thế tục ngữ Ấn Độ đã nói: “cái gì không có trong
Mahabrahata thì cũng không tìm thấy trên đất Ấn Độ”.
Sử thi
Ấn Độ là vùng ánh sáng thuần khiết cho siêu huyền bí “từ đó hiện thân sừng sững
một Ấn Độ đã đạt đến sự trưởng thành chín chắn của tinh thần, xác lập những con
đường tâm linh dẫn dắt người ta giác ngộ bổn phận của mình, nhận thức về ý
nghĩa hành động chuyển từ bình diện trần thế sang bình diện vũ trụ dưới nhũng
tia sáng của mặt trời.
Mahabharata
là tác phẩm lớn nhất- cả về dung lượng lẫn giá trị nhân bản của văn học Ấn Độ
cổ đại. Trong phạm vi văn học thế giới, Mahabharata là một trong những sử thi
đồ sộ nhất.
Một mặt, tuân thủ theo các qui tắc
chung của sử thi, mặt khác Mahabharata mang những nét độc đáo của Ấn Độ, của phương
Đông, cả ở tâm hồn, tư tưởng, cả ở bút pháp văn chương, tạo nên sức hấp dẫn rất
riêng và góp phần làm phong phú kho tàng sử thi của nhân loại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét