Con người chúng ta từ khi được sinh ra và lớn lên trên
đời như một trang giấy trắng, và chính thời gian là liều thuốc nuôi dưỡng và
bồi bổ những kinh nghiệm sẵn có và đúc kết được cho con người. Họ sống bằng cái
tâm, cái phẩm chất và năng lực của mình cùng với năng lực được rút ra trong
hoạt động thường ngày, những cái mình cho là hay, cho là ý nghĩa. Song đã là
cuộc đời thì không lúc nào củng bằng phẳng hay luôn trải thảm đỏ cho chúng ta
đi, mà cuộc đời là những chặng đường dài quanh co khúc khuỷu, khó khăn bất cập
luôn hiện ra trước mắt. Những ai đã từng sống và nếm trải qua “ mùi đời” thì
chắc chắn sẽ có được những thể nghiệm hết sức sống động và chan chứa tình cảm.
“Thể nghiệm” ở đây được xem như là sự lĩnh hội, suy tư, suy ngẫm đến xuyên
suốt. Trong bối cảnh này cái mà tôi muốn nhắc đến chính là sự hiểu thấu cuộc
đời.
Kết thúc chặng đường văn học Châu
Á, được tiếp cận và đi sâu vào bộ môn văn học Trung Quốc 中國 trong thời gian vừa qua
đã làm cho tôi có những suy nghĩ đầy sự buâng khuâng. Phải chăng chính vì được
thể nghiệm, bon chen và hòa nhập, “lăn xả” vào chặng đường đời đầy uẩn khúc và
cay đắng mà mỗi cá nhân lại có một cái nhìn rất riêng. Xen vào đó là sự hoài
niệm tiếc nuối mà những con người ấy- chính như Bồ Tùng Linh 蒲松齡 và Nguyễn
Dữ 阮餘 đã bộc tộ nỗi lòng
những tâm tư tình cảm vào những tác phẩm của mình, Bằng những hình ảnh,
ngôn từ, nghệ thuật hết sức đặc sắc và sinh động, những hình ảnh hư cấu nhưng
nó toát lên được cái tiềm ẩn đằng sau những câu chuyện, sự thực về đời,
những tình tiết gây cấn lúc thiên về tâm linh nhưng có lúc lại mang tính chất
dân gian đậm nét. Bằng nghệ thuật ấy phải chăng muốn nói lên cái mâu thuẩn
trong chuẩn mực của cuộc sống hay cái tư tưởng về Nho Giáo cùng với những triết
lý nhân văn khác…Tất cả những điều ấy đều được thể hiện một cách khá rõ nét qua
những tác phẩm văn học để đời mà chính hai tác giả tiêu biểu ấy đã dày công
viết thành. Với một tác phẩm văn học tiểu thuyết cổ Trung Quốc 中國 -Liêu Trai Chí
Dị 聊齋志異 và một án văn “thiên
cổ” 千古 của nền văn học trung
đại Việt Nam- Truyền Kỳ Mạn Lục 傳奇漫錄. Hai tác giả đã cho chúng ta thấy được những
câu truyện sự thật về đời và cuộc sống kham khổ của người dân dưới sự đè nén
của chế độ quyền lực. Những con người được sinh ra gắn liền với cuộc sống mưu
sinh.
Bồ Tùng Linh 蒲松齡 sinh năm 1640 và mất
năm 1715, người ở huyện Tri Xuyên, tỉnh Sơn Đông 山東, sinh ra và lớn lên
trong một gia đình địa chủ suy tàn, sống trong cảnh nghèo hèn, túng quẩn. Không
khác gì số phận của Kiều 翹, cuộc
đời của Bồ Tùng Linh 蒲松齡 lênh
đênh như đám “Lục Bình” trên dòng sông nước, những con sóng vô tình như muốn xô
đổ đưa đẩy ngọn “Lục Bình” ấy vùi dập theo dòng nước, muốn đánh vỡ đi những
hoài bão và tâm niệm trong chính chủ thể. Thật đúng với lời nhận định của
Nguyễn Du 阮攸 trong
tác phẩm Truyện Kiều 傳翹 : “Trăm
năm trong cõi người ta- Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” . Lận đận trong sự
nghiệp công danh, việc học lại long đong lúc học lúc không có những lúc ông lại
đi làm “Môn Khách” cho bọn quan lại. Sự nghèo túng, chật vật và những trôi nỗi
trong cuộc đời đã đưa ông đến gần với cuộc sống yên bình và thơ mộng chốn quê
hương, gắn liền với nhân dân, người lao động những con người quanh năm lận đận,
chân lấm tay bùn, lao động trong sự khổ mệt cực nhọc. Chính nhờ sự ấy đã đưa Bồ
Tùng Linh 蒲松齡 vào
sự đời và có một cái cảm nhận nhạy bén, tinh tế hơn chăng? Đây còn là một
dấu hỏi chưa thể nói hết lên được những suy nghĩ và những điều trắc ẩn trong
tâm thái của ông. Khi được biết đến, tiếp cận và bước vào thế giới của Liêu
Trai Chí Dị 聊齋志異 thì
tôi mới hiểu hết được những giá trị mà chính Bồ Tùng Linh 蒲松齡 đã miêu tả gần
gũi, bình dị và hết sức chân thật trong “Liêu trai” 聊齋. Tất cả những mặt sáng,
mặt tối của cuộc đời đều được tác giả khéo léo đặt trong những không gian
và thời gian đầy bí ẩn, từ những thế giới hiện thực và tâm linh cho đến những
giấc mơ trong thế giới huyền ảo, cùng với đó là hình ảnh của những ngôi mộ
hoang, chốn thượng giới, âm ti… Dù tác giả đã dùng nghệ thuật che khuất những
câu chuyện bằng lớp màn hư ảo và đi vào câu chuyện một cách tự nhiên, nhưng
người đọc vẫn có thể hiểu được cái cốt lõi hiện thực của nó, cái mà Bồ Tùng
Linh 蒲松齡 đã
dày công xây dựng để tạo nên cho tác phẩm của mình. Bồ Tùng Linh 蒲松齡 đã khéo léo chỉ rõ ra
nỗi long đong số phận của anh học trò mua danh bán tước, những thủ đoạn, sự
tham lam của bọn tham quan ô lại chuyên ức hiếp nhân dân cùng với những mánh
khóe của lũ cầu danh… Trong Liêu Trai Chí Dị 聊齋志異 không
ít những cảnh quan lại ức hiếp dân lành, vơ vét và hà hiếp của dân lành. Ví
như: Xúc Chức, Hương Cảo…ỷ vào tiền tài, quyền lực chức tước để bẻ đi vòng vây
công lý, chính nghĩa như: Tịch Phương Bình, Mộng thấy chó sói… Không những thế
tác giả còn vạch rõ và đã kích mạnh mẽ vào chế độ khoa cử lúc bấy giờ tạo nên
tình trạng “người trong cuộc thì khóc lóc chết dỡ mà người ngoài nhìn vào thì
rất buồn cười” như Vương Tử An, Ti Văn Lang, Thư sinh họ Diệp.. Nói đến chế độ
khoa cử thì tôi lại nhớ đến sự phê phán và sự lên án chế độ thi cử của Trần Tế
Xương 陳濟昌 trong
tác phẩm “Lễ Xướng Danh Khoa Đinh Dậu”
Nhà nước ba năm mở
một khoa
Trường Nam thi
lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử
vai đeo lọ
Ậm ọe quân trường
miệng thét loa
Cờ kéo rợp trời,
quan sứ đến
Váy lê quét đất,
mụ đầm ra
Nhân tài đất Bắc
nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông nỗi
nước nhà.
Tất cả những điều ấy chính là nỗi
bất bình dưới chế độ đương thời cùng với sự suy ngẫm nhìn nhận về cuộc đời, số
phận con người trước thời thế của Bồ Tùng Linh 蒲松齡
.
Không thua kém gì với nền văn học
Trung Quốc 中國 nói
chung và tác phẩm Liêu Trai Chí Dị 聊齋志異 của
Bồ Tùng Linh 蒲松齡 nói
riêng. Một tác gia của nền văn học trung đại Việt Nam, người đã góp phần cho
nền văn học Việt Nam có được một tác phẩm ví như một áng văn thiên cổ
ngang hàng với Liêu Trai Chí Dị 聊齋志異không
ai khác đó chính là Nguyễn Dữ 阮餘.
Dứoi ngòi bút phê phán hiện thực những tệ nạn trong xã hội phong kiến đang suy
thoái, Nguyễn Dữ 阮餘 đã
xây dựng thành công tác phẩm Truyền Kỳ Mạn Lục 傳奇漫錄.,
một tác phẩm phê phán một xã hội thối nát đầy rẫy những tệ nạn từ trên xuống
dưới. Trong khi đó thì cuộc sống của người dân hết sức bấp bênh, khốn đốn và
cực khổ bởi những cái xấu và cái ác bủa vây…Từ những hình ảnh đời trước phê
phán cho đến những tội ác của hiện tại, những điển hình sắc sảo cho tội ác tham
lam không đáy, nhũng nhiễu và hiếp bức dân lành. Nguyễn Dữ 阮餘 đã vạch trần và tố cáo
cái bản chất xấu xa đầy tội ác của giai cấp thống trị đã nói lên được phần nào
cái quan điểm thân dân của tác giả. Đồng thời tác giả cũng đã phơi bày sự giả
dối của những kẻ tu hành không chính đạo, mượn mái chùa để làm việc bất lương
như trộm cắp, trốn việc và làm chuyện xằng bậy. Ví như tên sư Vô Kỷ trong
truyện Nghiệp Oan của Đào Thị sống thiếu trung thực, làm chuyện dâm ô trong
chùa hay hai tên hộ pháp trong Truyện cái chùa hoang ở Đông Triều với
những hành động bỉ ổi “ vào bếp để khoắn hủ rượu”, “vào buồng để hại vợ
người”. Tất cả những cái xấu xa đang diễn ra trong một xã hội phong kiến đã và
đang dần đi vào trong tác phẩm bởi ngòi bút khắc họa của Nguyễn Dữ 阮餘 thể hiện đầy đủ và sắc
nét, phản ánh một cách trung thực và trực tiếp bộ mặt xã hội. Ngoài ra
truyền Kỳ mạn lục còn đề cao tinh thần dân tộc mạnh mẽ, sự gắn kết đi tới cái
tinh hoa trong cuộc sống, đồng thời còn thể hiện sự rạn nứt ý thức hệ phong
kiến của tác giả.
Khi đi sâu vào tìm hiểu hai tác
phẩm của Bồ Tùng Linh 蒲松齡
và Nguyễn Dữ 阮餘 tôi
dường như có thể cảm nhận và hiểu được mọi cái xấu, sai trái và lỗi lầm trong
xã hội nếu có ý thức và ý chí khắc phục thì chính những cái yếu đó sẽ biến
thành sức mạnh cho mỗi con người chúng ta. Sức mạnh của tinh thần ý thức luôn
thắng được cái xấu cái không đáng có nếu không may chúng hiện hữu trong chính
bản thân của con người chúng ta. Xét về hình tượng hai nhân vật Bồ Tùng
Linh 蒲松齡 và
Nguyễn Dữ 阮餘 có
thể nói cả hai đều có những nét chung nét tương đồng với nhau, mặc dù chính họ
là những con người sống ở hai thời đại, ở hai lành thổ quốc gia, nhưng dường
như từ sâu thẳm trong tâm thức họ có nhiều điểm chung, đều sống bằng cái tâm
trong sáng đều mang trong mình một hoài bão rất riêng, những con người có chí
hướng lớn nhưng phải chăng hoàn cảnh sống của xã hội đã làm cho họ rơi vào con
đường “bất đắc chí” 不得志. Không
những thế dưới bức tranh khắc họa của mình cả hai đều thể hiện sự công bằng cho
mọi tầng lớp thị dân trong xã hội, nêu cao tinh thần cuộc sống khốn khó của
nhân dân đương thời, đồng thời hạ thấp tính tham ô, dâm tục của cái ác, giải thoát
cho nhân dân thoát khỏi vòng vây của ách áp bức bóc lột, hướng tới cái hạnh
phúc, yêu thương cho con người. Mặc dù chịu ảnh hưởng của chế độ phong kiến,
Nho giáo 儒教 đè
nặng, rất khó vượt qua cái rào cảng ấy nhưng tác giả đã thể hiện được cái tư
tưởng của riêng mình, tính chất nhân văn nhân đạo luôn hiện hữu trong bản thân
của mình. Họ là con ngừơi ở mọi thời đại những con người đã thể hiện cái “cảm
hoài” 感懷 của
mình trong sự đè nặng về tinh thần lẫn thể xác.
Đến với Liêu Trai Chí Dị 聊齋志異 tập truyện thể hiện
được đầy đủ các tình tiết phong phú, liền mạch, các thiên trong truyện còn thể
hiện kết cấu chặt chẽ vững chắc. Hình tượng và nghệ thuật miêu tả nhân vật
trong từng thiên truyện thật nhiều ly kỳ và hấp dẫn. Cái chất nghệ thuật
và tài hoa được thể hiện rõ nét qua bút pháp khắc họa của Bồ Tùng Linh 蒲松齡 thể hiện đầy đủ một
áng văn thiên cổ cho Trung Quốc 中國thời
bấy giờ. Còn Truyền Kỳ Mạn Lục 傳奇漫錄 là một bản cáo trạng đanh thép của
Nguyễn Dữ 阮餘 đã kỳ
công xây dựng, vượt qua sự khiêm tốn của mình ông đã tạo nên một giá trị nhân
đạo sâu sắc, thể hiện rõ nét đặc sắc nghệ thuật trong chính bản thân của ông.
Những trải nghiệm để hiểu đời và tô vẽ cho đời nhiều nét vẽ tươi mới hơn. Mặc
dù Bồ Tùng Linh 蒲松齡 và
Nguyễn Dữ 阮餘 là
hai tác giả ở hai thời đại khác nhau nhưng họ có chung nhịp đập trái tim, một
lập trường, lý tưởng nhân nghĩa, luôn đứng về phía nhân dân cầu mong sự an
bình, phê phán cái xấu để từ đó tạo nên tác phẩm dù ở mọi thời đại khác nhau
nhưng vẫn còn đọng lại trong người đọc và cả chính tôi những trãi nghiệm và sự
hiểu thấu về lý tưởng nhân nghĩa sâu sắc nhất. Thấy rõ rằng nền văn học Trung
Quốc 中國 và
văn học trung đại Việt Nam có
những tính chất và lý tưởng nhân nghĩa nhân văn đầy tính hiện thực
Tài liệu tham khảo:
1.Hợp tuyển văn học Châu Á, tập I văn học Trung Quốc 中國, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội (Lưu
Đức Trung, Trần Lê Bảo, Phạm Hải Anh).
2.Văn học trung đại Việt Nam thế
kỷ X- cuối thế kỷ XIX, NXB giáo dục ( Đoàn Thị Thu Vân,Lê Trí Viễn, Lê Văn Lực,
Phạm Văn Phúc).
3.Nguyễn Dữ 阮餘 ,Truyền
Kỳ Mạn Lục 傳奇漫錄 , NXB văn học.
4.Bồ Tùng Linh 蒲松齡
, Liêu Trai Chí Dị 聊齋志異,
NXB văn học.
5.Trần Tế Xương 陳濟昌,
Lễ Xứng Danh Khoa Đinh Dậu, NXB văn học.