Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014

Thu Hứng - Đỗ Phủ

秋興其一
玉露凋傷楓樹林,
巫山巫峽氣蕭森。
江間波浪兼天湧,
塞上風雲接地陰。
叢菊兩開他日淚,
孤舟一繫故園心。
寒衣處處催刀尺,
白帝城高急暮砧。


Thu Hứng.
Phiên âm:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Dịch nghĩa:
Sương trắng tiêu điều trên cả rừng cây phong,
Núi Vu, kẽm Vu hơi thu nghe hiu hắt.
Giữa dòng sông con sóng cuộn cao lên đến tận trời,
Trên cửa ải áng mây như sa xuống mặt đất.
Khóm cúc nở hoa hai lần làm dòng lệ lại tuôn rơi,
Con thuyền không bến một lòng buộc mối tình nơi quê nhà.
Chợt nghe xa xa có tiếng dao kéo may tấm áo rét,
Trên cao thành Bạch Đế có tiếng chày đập vải ngày càng dồn dập.

Dịch thơ:
Hạt sương ũ rũ rừng phong trắng,
Hơi thu bay nhấc giấc thu sầu.
Trời xanh con sóng tung cao với,
Mây ôm mặt đất phủ màng mưa.
Khóm cúc thêm rơi dòng lệ cũ,
Con thuyền ôm chặt mối tình quê.
Nhịp nhàng dao kéo hòa đường nét,
Bạch Đế thành cao chày vang xa.

Bản dịch nghĩa và thơ: Vũ Như Văn.

Vọng Lư Sơn Bộc Bố - Lý Bạch

望廬山瀑

日照香爐生紫煙,
遙看瀑布掛前川。
飛流直下三千尺,
疑是銀河落九天。
李白 

Vọng Lư Sơn Bộc Bố

Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan Bộc Bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
Lý Bạch

Dịch nghĩa:
Mặt trời chiếu núi Hương Lô sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây


Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây
(Tương Như dịch)

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

Nỗi lòng Vĩnh Thạnh

Một buổi sáng xinh tươi đất Vĩnh Thạnh,
Tôi mơ hồ lạc vào cõi không tên.
Bước bên em với bao điều mới lạ,
Tim bồi hồi với bóng dáng em yêu.
Tôi thất tĩnh vì sự thật phủ phàng,
Làm tan nát trái tim người kẻ sĩ.
Một sự thật như hoa rào trước ngõ,
Bám thân ai mỗi lúc ánh dương tàn.
Trái tim tôi đâu phải là lối nhỏ,
Để cho em dày xéo biết bao lần.
Em cứ bước nhưng xin đừng bỏ lại,
Một vết cắt đau nhói ở trong tim.
Dẫu biết rằng bên em không hạnh phúc,
Nhưng sao mình lại cứ thẳng bước đi.
Đường u tối ai biết được lối thoát,
Để phóng đi mũi tên của tâm hồn.
Giờ đau nhói biết làm gì thức tỉnh,
Mà xua đi hình bóng của một thời.
Trái tim tôi bây giờ đã rướm máu,
Liều thuốc nào hàn gắn lại đây em.


Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2014

Thi Tiên - Lý Bạch 李白.


Trải qua các giai đoạn lịch sử từ cổ đại cho đến hiện đại, thì vào thời cổ trung đại, Trung Quốc 中国 được xem là có một nền văn học hết sức phong phú và đa dạng. Nền văn học được phát triển mạnh mẽ qua các thời kỳ, từ thời Xuân Thu Chiến Quốc 春秋戰國 thì văn học Trung Quốc 中国 đã bắt đầu phát triển. Mãi cho đến thời Tây Hán 西漢, ở thời kỳ này tư tưởng Nho gia 儒家 bắt đầu được đề cao. Nho gia 儒家 là trường phái triết học rất coi trọng việc học tập, cho nên từ Hán về sau những ngòi bút viết văn trong xã hội Trung Quốc中国 lúc bấy giờ xuất hiện ngày càng nhiều. Đến thời Tùy Đường 隋唐, chế độ khoa cử bắt đầu ra đời, lúc này văn chương vượt lên một đỉnh cao mới, trở thành thước đo chủ yếu của tài năng. Do đó nền văn học Trung Quốc 中国 ngày càng có bước phát triển mạnh mẽ và có nhiều thành tựu lớn lao. Phát triển ở nhiều thể loại như: thơ, từ, phú, kịch, tiểu thuyết…..

Thơ Đường 唐詩 được biết đến như một thành tựu rực rỡ của văn học đời Đường , văn học Trung Quốc 中国 nói riêng cũng như văn học thế giới nói chung. Ra đời và thịnh vào khoảng năm (618-907) TCN, toàn bộ thơ ca đời Đường có hàng nghìn bài thơ, được bảo tồn trong cuốn “ Toàn Đường Thi” 全唐詩 gồm 48.900 bài của hơn 2.300 tác giả, thơ Đường vừa độc đáo, vừa cổ điển, lại mang màu sắc Trung Quốc 中国 rõ nét, với nhiều thể loại thơ khác nhau. Ngôn ngữ thơ Đường đơn giản, quen thuộc, có khả năng diễn đạt vô cùng tinh tế, phong phú qua giọng điệu của các nhà thơ. Đỉnh cao thơ Đường được kết tinh qua các nhà thơ: Lý Bạch 李白, Đỗ Phủ 杜甫, Vương Duy , Bạch Cư Dị 白居易

Lý Bạch 李白(701-762) được biết đến là một trong những nhà thơ nổi tiếng đời Đường . Con người và sự nghiệp của ông từ suốt 1.300 năm nay là đối tượng để nhiều người và hậu vi sau này nghiên cứu, tìm tòi ra nét đặc sắc độc đáo từ nhân thân cho đến sự nghiệp thơ ca của ông. Nếu như thơ Đỗ Phủ 杜甫 trầm uất sâu lắng với phong cách hiện thực bi thiết thì thơ Lý Bạch 李白lại phóng khoáng bay bổng, phong cách lãng mạng mãnh liệt tươi sáng. Ông được người đời ca ngợi là “Thi Tiên” cùng với Vương Duy ( Thi Phật ) và Đỗ Phủ 杜甫 ( Thi Thánh ), là một trong ba nhân vật nổi tiếng về thơ ca thời Đường .

Là một thi sĩ - kiếm khách, ông thích ngao du sơn thủy, coi thường danh lợi, trăng rượu, hoa, cảnh núi sông tráng lệ, tình bằng hữu, tình quê hương… luôn hiện hữu trong những vần thơ lãng mạng của Lý Bạch 李白.
Nhà thơ Bì Nhật Hưu thời vãn Đường  nói rằng: "Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến giờ, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì lòng ôm bốn bể, lỗi lạc dị thường, không phải lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch". Lý Bạch 李白làm hơn 20.000 bài thơ cả thảy, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả. Sau loạn An Lộc Sơn 安祿山 thì mất rất nhiều. Đến khi ông mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân 李陽麟 thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người ta truyền tụng. Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Cao Ly 高麗 mới gom góp lại tập thơ Lý Bạch 李白, gồm 1800 bài. Đến nay thì thơ Lý Bạch 李白còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan...

Nói đến hai chữ “ Thi Tiên” thì “ Tiên” ở đây là ý nói một người khác với người phàm, họ không chịu ảnh hưởng bởi quy luật sinh tử “ sanh, lão, bệnh, tử” có tuổi thọ bằng trời, đất, họ có phép thần thông, có thể đạp gió, cưỡi mây đi xa hàng nghìn dặm. Là người rũ bỏ mọi ham muốn trần tục, thế giới của họ là quyền quý, không có hiện tượng xấu xa như người phàm tục. Thi là thơ, “Thi Tiên” là một con người tạo ra những tác phẩm không ai sánh được, tác phẩm mang sắc thái của “ Tiên”, âm hưởng của “ Tiên” mà người phàm không thể sáng tác được như vậy

Trong các tác phẩm của Lý Bạch 李白được đề cập đến nhiều đề tài khác nhau từ phong cảnh non sông hung vĩ, tình bạn tình yêu cho đến việc đã kích bọn quyền quý xa hoa… Những đề tài trong thơ ông không tập trung như Ly Tao 離騷, Cửu Ca của Khuất Nguyên , phẫn uất vì có tài năng mà không được dùng đến, bị vùi dập không mang niềm tin cẩn và trọng dụng, có chí mà không được thi thố. Tư tưởng của Lý Bạch 李白không được thuần nhất như Đỗ Phủ 杜甫. Là một nhà Nho buồn vì nước, vì dân. Muốn hòa mình vào trong lòng dân, lòng nước để phơi bày được niềm thương dân yêu nước của mình. Bên cạnh tiếp thu cái tư tưởng Nho gia 儒家, trong ông còn có tư tưởng Đạo gia 道家 và tinh thần hiệp khách. Cho nên cách nhìn của ông khác với Đỗ Phủ 杜甫 không có tính thuần nhất.

Trong thơ Lý Bạch 李白trước hết thể hiện lên hình ảnh của non song gấm vóc tráng lệ. Nhà thơ đi ngao du sơn thủy, thấy nhiều hiểu nhiều, những sự việc củng như là khung cảnh của hiện thực đời sống  đem lại cho chính Lý Bạch 李白nhiều cảm thức thẩm mỹ, cái đẹp sẵn có một cách tự nhiên. Giống như Tư Mã Thiên 司馬遷, chính vì đi đây đi đó, du lịch trên khắp đất nước Trung Quốc 中国, ông mới nắm được nhiều diễn biến của lịch sử ở mọi thời đại, thu thập được nhiều kiến thức. Mà chính như Mã Tồn một văn sĩ đời sau có nói: “ Muốn biết được cái văn của Tư Mã Tử Trường trước hết phải biết được cái chơi của Tử Trường”.
Đến Lý Bạch 李白củng vậy, với ngòi bút phóng khoáng của mình đã tái hiện lại nước non hùng vĩ trong thơ. Sông Hoàng Hà , thác Núi Lư nhiều lần đi vào thơ ông thật hung vĩ:
Trong bài ( Tương Tiến Tửu ) 將進酒 có câu:

君不見 黃河之水天上來 
奔流到海不復回.

Quân bất kiến  Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai  
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.

“ Há chẳng thấy nước sông Hoàng Hà từ trời tuôn xuống
Chảy tuột về biển Đông, chẳng quay về.

Dòng sông Hoàng Hà như sống dậy dưới ngòi bút nhà thơ. Hay như trong bài “ Vọng Lư Sơn Bộc Bố” :

              
望廬山瀑布

日照香爐生紫煙,
遙看瀑布掛前川。
飛流直下三千尺,
疑是銀河落九天。

Vọng Lư Sơn Bộc Bố

Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan Bộc Bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên

“Xa ngắm thác núi Lư

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.”

Ngay câu đầu, nhà thơ đã vẽ nên cảnh sắc Lư Sơn thật là mĩ lệ. Tiếp đến lại nói đến xa trông mà không phải là nhìn ngắm ở khoảng cách gần, đó chính là lý do của chữ nghi ( ngỡ, tưởng ) một sự tưởng tượng kì lạ đượm sắc lãng mạn, thần bí mà lại tự nhiên “Ngân Hà Lạc Cửu Thiên”. Vẻ đẹp của thác nước tuôn trào từ núi cao hiện ra sống động trước mắt mà âm vang của nó như cũng làm ta cảm nhận được. Cảnh tượng Lư Sơn được miêu tả trong trạng thái động làm cho hồn thơ bay bổng, thoát tục.

Lư Sơn là dãy núi ở Sơn Tây Trung Quốc 山西中国, có nhiều ngọn chảy dài, nhưng chỉ có một ngọn là có thác đổ. Ta thấy thế nước cao rơi xuống ba nghìn thước, qua cái nhìn của Lý Bạch ông so sánh với dải Ngân Hà 銀河 dường như tuột khỏi mây. Thấy được sự phóng khoáng  thanh thoát trong suy nghĩ của tác giả đồng thời tạo cho câu thơ khỏe khoắn, đầy sức sống. Dẫn người đọc đi vào những hình ảnh được nhà thơ phá cách bởi sự liên tưởng độc đáo, mạnh mẽ, trí tưởng tượng phong phú.

Giữa nền xanh của núi, hơi nước trắng rọi tỏa như khói hương là dòng nước bạc đồ sộ, tuôn dài như một tấm vải trắng. Bài “ Xa ngắm thác núi lư” của “Thi Tiên” Lý Bạch 李白đã lưu lại cái đẹp hùng vĩ, nét tráng lệ mà thiên nhiên ban tặng, thể hiện được tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Lòng yêu nước ấy bắt nguồn từ những hình ảnh mà cuộc sống của thiên nhiên, quê hương ban tặng vậy.

Và ở đây, ta thấy khoa trương, thủ  pháp mà Lý Bạch sử dụng là bắt nguồn từ hiện thực, bởi vậy cả bài thơ là một bức tranh thiên nhiên kì vĩ có hình và có thần.
Tô Thức, nhà thơ (đúng hơn là nhà sáng tác từ) đời Tống có lời bình như sau: Đế khiển Ngân Hà nhất phái thùy, Cổ lai duy hữu trích tiên từ. (Nghĩa là: Trời khiến một giải Ngân Hà sa xuống, nhưng từ xưa tới nay chỉ có lời (thơ) của trích tiên – chỉ Lý Bạch).

Bên cạnh tư tưởng Nho gia 儒家 thì tư tưởng Đạo gia 道家 củng được Lý Bạch 李白tiếp thu. Ngay từ lúc hàn vi ông đã có cách sống phóng túng, tự do, ngao du sơn thủy, khinh miệt phú quý, coi thường danh tước. Khi rơi vào con đường “ Bất Đắc Chí” 不得 thì Đạo gia 道家 lúc này lại chiếm ưu thế. Ngoài Đạo gia 道家 thì tư tưởng du hiệp cũng chiếm địa vị trong thơ ông. Tạo nên  những vần thơ phóng túng, sảng khoái, thanh thoát. Thơ ông mượn bóng trăng, cõi tiên để tâm sự. Cõi tiên trong thơ ông là một thế giới lý tưởng, kỳ ảo. Trong giấc mơ thì ông như lạc vào cõi tiên với nhiều điều thú vị, cái tươi vui, đẹp đẽ được hiện ra trong chính ông nhưng khi trở về với hiện thực thì ông lại ngán ngẫm muốn mình mãi mãi lạc vào cõi “Tiên” để mơ thấy được những điều tốt đẹp nhất. Lý Bạch 李白bắt đầu có những lý tưởng cảm thức thẩm mỹ về ngoạn cảnh thiên nhiên  siêu thoát và thế giới thần tiên kỳ ảo.
Lý Bạch 李白tự xưng mình là “Tiên”. Trong bài: Ðáp Hồ Châu Ca Diệp tư mã vấn Bạch thị hà nhân .

答湖州迦葉司馬問白是何人

青蓮居士謫仙人,
酒肆藏名三十春。
湖州司馬何須問?
金粟如來是後身。 

Ðáp Hồ Châu Ca Diệp tư mã vấn Bạch thị hà nhân 

Thanh Liên cư sĩ trích tiên nhân,
Tửu tứ tàng danh tam thập xuân.
Hồ Châu tư mã hà tu vấn ?
Kim Túc Như Lai thị hậu thân. 

“Đáp tư mã Ca Diệp ở Hồ Châu hỏi ông Bạch là ai 

Cư sĩ làng Thanh Liên người vốn là tiên bị đày
Uống rượu thoải mái, mai danh đã ba mươi năm
Tư mã Hồ Châu hỏi tới làm gì ?
Kiếp sau sẽ là Kim Túc Như Lai đấy.”

Lý Bạch 李白say rượu, lấy rượu làm bạn một mình hiên ngang giữa trời đất và trong lúc say ông mơ thấy có một bấy tiên nữ bay xuống viếng thăm, nhảy múa, vẩy nước cam lộ rồi chào tạm biệt ông. Sau khi tỉnh, Lý Bạch 李白đã lấy cảm hứng  từ điệu nhảy của bầy tiên nữ và viết nên những vần thơ bất hủ. Tuy say nhưng trong cái say của Lý Bạch 李白ông đã đặt ngòi bút của mình sang tác nên những vần thơ tuyệt vời, lấy cảm hứng từ chốn thiên thượng cùng với tâm thức của Lý Bạch 李白nhìn từ trên xuống thế giới trần tục mà viết. Những tác phẩm của ông biểu hiện nên một cảnh giới “ thiên nhân hợp nhất” 天人合 . Tâm hồn lãng mạng tiêu dao tự tại không bị ràng buộc, thích làm gì thì làm. Những tác phẩm mang chất “Tiên” đậm nét phóng khoáng không ràng buộc, tinh tế. Chính vì thế mà người ta gọi ông là “Thi Tiên”

Tuy bị giáng chức, không được trọng dụng nhưng trong ông vẫn không bi quan mà thay vào đó là niềm lạc quan. Ông nghĩ rằng: Ở trên trời cao có trăng sáng, có bầy tiên nữ bay lượn, những đám mây phước lành và dải Ngân Hà 銀河 rộng lớn thì việc ông bị giáng chức bất quá chỉ như cơn gió to thổi bay mũ hà tất phải ưu sầu.
Trong các tác phẩm của mình, Lý Bạch 李白đều mang chủ nghĩa lãng mạng tích cực, Lý Bạch 李白tiếp thu ảnh hưởng của Thi Kinh 詩經, nhưng sâu sắc nhất vẫn là Sở Từ của Khuất Nguyên . Khuất Nguyên đã xây dựng được một loạt những hệ thống hình tượng sinh động, đẹp đẽ kì vĩ khá hoàn chỉnh nhằm phản ánh chân thực mâu thuẩn xã hội và xung đột nội tâm. Từ đó người đọc nhận ra lý tưởng , tình cảm mãnh liệt cùng hoài bão to lớn của tác giả “ Huyền thoại hóa” có thể nói là bút pháp chủ đạo của Ly Tao, Cửu Chương, Cửu Ca..

Lý Bạch 李白kế thừa Khuất Nguyên nhưng phát huy cao hơn với tinh thần sáng tạo cách tân. Để thể hiện tình cảm mãnh liệt của mình, hình ảnh trong thơ ông thường sống động, to lớn, đẹp đẽ. Ông ví mình là “ Hoàng hải ngư” 皇海漁 tức là con cá nằm ngang biển.
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông cũng mang sắc thái đặc biệt. thiên nhiên trong thơ ông không tĩnh như trong thơ Vương Duy , cũng không nghẹn ngào nức nở như trong thơ Đỗ Phủ 杜甫 mà mênh mông, phóng túng, bay bổng huy hoàng.

Trong thơ ông luôn xuất hiện hình ảnh bóng trăng, nỗi nhớ quê hương đất nước trong đêm vắng của ông củng được thể hiện rõ qua hình ảnh của ánh trăng. Từ hình ảnh ánh trăng mang lại cho Lý Bạch 李白 nhiều nỗi khắc khoải về quê hương. Thể hiện rõ nét qua bài thơ “Tĩnh Dạ Tư”



靜夜思

床前明月光,
疑是地上霜。
舉頭望明月,
低頭思故鄉。

Tĩnh dạ tư

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

“NỖI NHỚ TRONG ĐÊM VẮNG

Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.”

Bài thơ này điển hình cho phong cách thơ của Lý Bạch: Thanh thủy xuất phù dung, Thiên nhiên khứ điêu sức (theo lời giáo sư Lí Tề Dã), nghĩa là: Hoa sen mọc lên từ nước trong ; Thiên nhiên không cần phải bài trí, gia công.

Đỗ Phủ có câu thơ rằng: Nguyệt thị cố hương minh (nghĩa là: Trăng là ánh sáng quê hương). Nhà thơ vốn mẫn cảm, vậy trăng sáng có thể dẫn tới nhiều tâm tư mà hoài niệm quê hương là một khía cạnh trong đó. Trong thơ có nói tới sàng tiền (đầu giường), ta nghĩ ngay đến cảnh mơ màng sắp chìm vào giấc ngủ hoặc chợt tỉnh, và do đó mà ngỡ (nghi) ánh trăng là sương trên mặt đất. Ngẩng đầu lên thấy ngay trăng sáng, nhưng lúc cuối đầu là nỗi nhớ quê day dứt. Thường thì chiều sâu của nỗi nhớ quê là ý tại ngôn ngoại. Thủ pháp nghệ thuật ở đây là bạch miêu ( vốn là thủ pháp hội họa Trung Quốc, chỉ vạch các đường nét chứ không tô điểm hoặc vẽ màu. Thuật ngữ này dùng trong thi ca, chỉ bút pháp thơ mộc mạc, không trau chuốt, không màu mè, mà phác họa hình tượng tươi tắn, sinh động), mà chỉ những bậc thi hào mới có thể vận dụng một cách tự nhiên và đạt đến hiệu quả cao.

Trên cơ sở trí tưởng tượng phong phú bay bổng, trong mọi đề tài, ông thông qua cảnh giới thần tiên, ảo tưởng, siêu phàm để thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của bản thân, lấy chuyện ngày xưa để nói chuyện hiện tại, nhất là khi ông bày tỏ lòng căm ghét, phê phán, đã kích. Ông lại gửi gắm tâm hồn, tư duy của mình vào thiên nhiên. Thiên nhiên như một người bạn tri âm tri đắc, hiểu rõ nỗi lòng ông, an ủi, khuyến khích, giúp đỡ ông xua tan những cái xấu xa, đưa lại những điều tốt đẹp.

Lý Bạch 李白là nhà thơ lớn thời thịnh Đường . Người ta gọi là “Thi Tiên”, đó là địa vị của ông trên thi đàn văn thơ là tình cảm quần chúng đối với ông, một nhà thơ lãng mạn tích cực. Ông thừa kế truyền thống ưu tú của Kuất Nguyên , là người đưa thơ ca phải có “ Phong Cốt Kiến An” 風骨見安 của Trần Tử Ngang 陳子昂 thời thịnh đường đến chổ được khẳng định. Ông có ảnh hưởng tích cực đến đời sau, phong cách hào phóng bay bổng, lãng mạn, tiêu dao tự tại trong thơ ca Lý Bạch 李白.
Lý Bạch 李白để lại hơn 900 bài thơi cho đến bây giờ, ngoài ra còn có hơn 60 bài văn xuôi. Với sức tưởng tượng lạ lùng và khí phách hoành tráng, thơ của Lý Bạch 李白hấp dẫn mọi người, ảnh hưởng sâu xa tới đời sau, Lý Bạch 李白được đời sau gọi là “Thi Tiên”.

Tài liệu tham khảo:

1.Thơ Đường bình giải, Nguyễn Quốc Siêu, NXB giáo dục – 1998.
2.Lịch sử văn học Trung Quốc, NXB giáo dục – 1998.
3.Đường thi tam bách thủ, Viên Thu, NXB thời đại.





Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2014

Có một chút gọi là mưa con gái.

Khi cơn mưa, giông tố kéo đến chiếc ô nhỏ của em ở đâu ?
Em sẽ gọi anh là “Ngốc” cho tình yêu bé nhỏ của em.
Em chỉ cần một tình yêu nhẹ nhàng đơn giản mà đầy hạnh phúc yêu thương nơi anh, là bờ vai nơi nương tựa cho em mọi lúc mọi nơi. Em sẽ cùng anh nắm tay nhau vui đùa trên những con phố nhỏ, vỉa hè hay cả những công viên đầy hoa dưới ánh đèn lờ mờ về đêm. Để rồi một cơn gió ùa nhẹ qua tấm thân bé bỏng của em nhẹ nhàng nép vào bên anh. Mang hơi thở tình yêu nồng ấm cho vòng tay anh ôm lấy bờ vai nhỏ xinh của nàng.
Tình yêu nồng ấm để rồi lắm lúc những giận hờn vu vơ làm các chàng phải điêu đứng.
“ Con gái nói có là không, nói không là có”. Con gái chúng em là thế đấy, mặc cho các chàng trai còn đang vò đầu bức tai vì lung túng trước nụ cười của các nàng.

                                      


-         Gọi là chút mưa con gái: Khi em buồn luôn có vòng tay anh bên em,
      Em sẽ ôm anh vào lòng và thút thít cho đến khi ướt cả tấm áo mỏng của anh

-         Gọi là chút mưa con gái: Khi những cơn mưa mùa đông làm lòng em lạnh giá,
             Em sẽ kéo anh cùng đi trong màng mưa.

-         Gọi là chút mưa con gái: Khi lắm lúc em cô đơn, hiu quạnh,
Em lại cướp lấy trái tim anh sưởi ấm lại trái tim em.

-         Gọi là chút mưa con gái: Khi giận hờn với ai hay cả anh,
Em sẽ lôi anh lại ngồi kế bên em, để rồi em sẽ đánh lên lưng anh thùm thụp, trút hết sự hờn dỗi.

-         Gọi là chút mưa con gái: Khi bị la mắng, đau buồn,
            Em sẽ trút cả lên anh cho vơi nhẹ trong lòng.

-         Gọi là chút mưa con gái: Khi mỗi sang đi học,
Em sẽ bắt anh đèo em trên chiếc xe đạp qua từng con phố nhỏ.

-         Gọi là chút mưa con gái: Khi nũng nịu bên anh,
Em sẽ bắt anh làm trò và làm mọi thứ em muốn.

Chút mưa con gái của em là thế. Để rồi:
“Sau cơn mưa trời lại sáng”. Chỉ cần anh bên em những lúc cơn mưa đến, che chở, ôm lấy em những khi cô đơn, hờn dỗi. Cho em chút hơi ấm tình yêu ngọt ngào như những thanh Sôcôla . Cho lòng em ấm áp.
Chút mưa con gái của em chỉ đơn giản thế thôi.