Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014

Thu Hứng - Đỗ Phủ

秋興其一
玉露凋傷楓樹林,
巫山巫峽氣蕭森。
江間波浪兼天湧,
塞上風雲接地陰。
叢菊兩開他日淚,
孤舟一繫故園心。
寒衣處處催刀尺,
白帝城高急暮砧。


Thu Hứng.
Phiên âm:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Dịch nghĩa:
Sương trắng tiêu điều trên cả rừng cây phong,
Núi Vu, kẽm Vu hơi thu nghe hiu hắt.
Giữa dòng sông con sóng cuộn cao lên đến tận trời,
Trên cửa ải áng mây như sa xuống mặt đất.
Khóm cúc nở hoa hai lần làm dòng lệ lại tuôn rơi,
Con thuyền không bến một lòng buộc mối tình nơi quê nhà.
Chợt nghe xa xa có tiếng dao kéo may tấm áo rét,
Trên cao thành Bạch Đế có tiếng chày đập vải ngày càng dồn dập.

Dịch thơ:
Hạt sương ũ rũ rừng phong trắng,
Hơi thu bay nhấc giấc thu sầu.
Trời xanh con sóng tung cao với,
Mây ôm mặt đất phủ màng mưa.
Khóm cúc thêm rơi dòng lệ cũ,
Con thuyền ôm chặt mối tình quê.
Nhịp nhàng dao kéo hòa đường nét,
Bạch Đế thành cao chày vang xa.

Bản dịch nghĩa và thơ: Vũ Như Văn.

Vọng Lư Sơn Bộc Bố - Lý Bạch

望廬山瀑

日照香爐生紫煙,
遙看瀑布掛前川。
飛流直下三千尺,
疑是銀河落九天。
李白 

Vọng Lư Sơn Bộc Bố

Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan Bộc Bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
Lý Bạch

Dịch nghĩa:
Mặt trời chiếu núi Hương Lô sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây


Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây
(Tương Như dịch)