Bộ môn Hán Nôm là một môn khoa học có liên quan mật thiết và rất quan trọng đối với ngành văn học Việt Nam. Trong kho tàng từ vựng Tiếng Việt cùng với các mảng thơ văn thì chữ Hán và chữ Nôm đóng vai trò là một phần “máu thịt” không thể thiếu được, thiếu những nguyên liệu Hán Nôm này thì tòa lâu đài văn học Việt Nam không trở nên “đồ sộ” và “nguy nga” được.
Nước ta là một nước nằm ở khu vực Đông Nam Á, phía Bắc giáp với Trung Quốc nên
chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa phương đông nói chung và nền văn hóa
Trung Hoa nói riêng. Trong lịch sử khi nước ta bị Trung Quốc thống trị,
từ năm 111 trước Tây lịch tức từ Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức đem quân sang xâm
lược nước ta, cho mãi đến năm 938 khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán ở cửa
sông Bạch Đằng. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc người Trung quốc đã mang văn
hóa của họ trong đó có chữ Hán phổ biến ở nước ta. Qua các thời kỳ lịch sử và
nhiều sự kiện xảy ra thì nước ta đã chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa
phương Đông và đặc thù là nền văn hóa Trung Hoa. Ở thời kỳ này chữ Hán bắt đầu
xuất hiện và phổ biến trong nhân dân ta.
Đến đời Trần (TK XIII) chữ Nôm ( thứ chữ do nhân dân ta vận dụng
chữ Hán mà chế tác ra để ghi tiếng nói của dân tộc) bắt đầu dùng để sáng tác
những mảng thơ văn đầu tiên, rồi dần dần thịnh hành và tồn tại phát triển song
song với chữ Hán. Một số tác phẩm nổi bật ở thời kỳ Lý-Trần với các thể loại
thơ,phú…Tác phẩm “Xuân Cảnh” của Trần Nhân Tông, “Tụng Giá Hoàn Kinh Sư” của
Trần Quang Khải, “Xuân Đán” của Chu Văn An, “Lưu Gia Độ” của Trần Quang Khải….
xuất hiện tiêu biểu cho thời kỳ này.
Đến thời kỳ (TK XX) thì chữ Hán và chữ Nôm có phạm vi và mức độ bị thu
hẹp dần , mà tác phẩm “Ngục Trung Nhật Ký” của Hồ Chí Minh (1942-1943) được coi
là cái mốc cuối đánh dấu sự cáo chung của chữ Hán và chữ Nôm. Với thời gian sử
dụng ghi chép trong 2000 năm với chữ hán và 700 năm với chữ Nôm thì chữ Hán và
chữ Nôm đã để lại cho thư viện văn học một số lượng tác phẩm khá nhiều và đa
dạng về các thể loại.
Đối với các nghành đào
tạo trong hệ giáo dục hiện nay đặc biệt là ngành Ngữ Văn thì không thể thiếu
phân môn cho bộ môn Hán Nôm này. Trong kho tàng văn học của ông cha ta để lại
thì dung lượng văn thơ chữ Nôm và chữ Hán khá là đồ sộ, chữ Hán Nôm đóng vai
trò đặc biệt trong việc nâng cao giá trị của tác phẩm, đưa tác phẩm thơ văn lên
một tầm vóc cao lớn hơn. Làm tăng giá trị ngôn từ cho tác phẩm. Hàng trăm cuốn
sách chuyên luận, các bản dịch thơ văn của các nhà Hán học,Nôm học đã xuất bản
trong vài chục năm qua là những đóng góp to lớn của ngành Hán Nôm đối với nền
văn học cổ điển nước nhà. Theo nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội hiện quản lý 5.038
đầu sách và khoảng 30.000 đơn vị tư liệu bao gồm các loại như phim, ảnh, bản
rập các bài văn khắc trên bia đá, chuông đồng, khánh đá, biển gỗ. Đó là chưa kể
những sách Hán Nôm , Châu bản triều Nguyễn, địa bộ, sắc thần, bia đá, thơ, câu
đối, hoành phi… hiện còn rải rác trong dân chúng, ở các cung điện, lăng tẩm,
đình chùa, các thư viện và cơ quan lưu trữ khác ở trong nước, các thư viện ở
nước ngoài. Hiểu rõ hơn nền văn học của cha ông chúng ta đó là một yếu tố quan
trọng để làm nên diện mạo và bản sắc của văn học Việt Nam hiện nay.
Khi tiếp cận trực tiếp vào tác phẩm văn học thì ta mới thấy được giá trị
thẩm mĩ và giá trị đích thực của chữ Hán và Nôm. Vì vậy khi giảng dạy tại các
nhà trường đối với ngành Ngữ Văn thì bộ môn luôn đi song song với chuyên ngành
đào tạo Ngữ Văn. Tuy là còn mới lạ đối với thế hệ trẻ hiện nay nhưng khi tiếp
xúc với bộ môn này sẽ giúp cho kiến thức của sinh viên vững chắc và chặt chẽ
khi phân tích các tác phẩm phiên âm từ chữ Hán. Ngoài kiến thức văn học trung
đại ,hiện đại từ vựng ngữ nghĩa Tiếng Việt là sơ cấp thì kiến thức Hán Nôm là
gốc rễ để phân tích “ngọn ngành” cho mọi từ ngữ gốc Hán được rõ nghĩa đến từng
chi tiết . Đọc câu thơ “ Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu” 故人西辭黃鶴樓 trích từ bài: “Hoàng Hạc lâu tống
Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” 黃鶴樓送孟浩然之廣陵 của Lý Bạch 李白 nếu muốn tìm hiểu tâm trạng luyến nhớ của nhân vật trữ
tình trong buổi chia tay được kín đáo đan cài trong câu thơ mà chỉ lướt qua
phần dịch nghĩa kiến thức không vững thì ta chẳng thấy gì ngoài nội dung thông
báo là : “Ngoái về phía tây,bạn cũ giã từ lấu Hoàng Hạc thì thật sự hết sức
bình thường và vô cảm. Những điều này chỉ có thể cảm nhận được khi đi sâu
và khám phá hệ thống ngôn từ của câu thơ bắt đầu từ chữ “Cố Nhân” 故人 .Khi Ngô
Tất Tố dịch thành bạn cũ thì chư lột tả được hàm ý sâu xa của từ này.
Nhưng khi đặt vào các trường hợp yếu tố “Cố” 故 như: Cố Quốc,
Cố Hương, Cố Viên… ta mới thấy được hết bao tình cảm yêu thương triều mến trong
từ “Cố Nhân”, phải là người bạn hết sức thâm giao thì mới dùng từ “Cố
Nhân” để gọi nhau.
Nếu đứng trên lập trường và thú về nghệ thuật chơi chữ Hán Nôm trong các tác
phẩm thơ ca hay các con chữ trong một khổ văn thì mới thấy được cái ý nghĩa sâu
xa đồng thời thấy cái hay của nó: Lấy ví dụ từ chữ “Sầu” 愁 ta có thể lí giải được bao điều mới lạ giữu mùa thu
và văn chương. “Sầu” gồm chữ Thu 秋 và
chữ Tâm 心 . Mùa thu đậu trên lòng người với những nỗi niềm
thấm đẫm trong thơ ca từ cổ kim đều thấm đẫm nỗi buồn. Trong kho tàng văn học nước ta một số tác phẩm đều mang nỗi buồn
sầu ấy được thể hiện qua các bài thơ của cụ Nguyễn
Khuyến với : “Thu Vịnh”, “Thu Điếu”, “Thu Ẩm” hay như “Thu Hứng”
của Đỗ Phủ như “Đây mùa xuân tới” của Xuân Diệu.
Hay trong nghệ thuật và sự khám phá cái lý thú về nghệ thuật chơi chữ của tên
các tác giả Trung Hoa. Ví như: “Thanh Tâm Tài Nhân” 青心才人 là tác giả
của tác phẩm nổi tiếng Kim Vân Kiều 金雲翹 . Tên tác
giả “Thanh Tâm Tài Nhân” nếu như khi đọc qua mà không có sự hiểu
biết sâu rộng và nghĩa trong từng con chữ thì sẽ là một cái tên bình thường
không có gì đặc biệt nhưng khi đi sâu vào phân tích cái tên ấy ra thì sẽ thấy
được cái hay và thú vị trong đó. “Thanh Tâm Tài Nhân” được kết hợp với
bốn cái tên gắn liền với bốn phẩm chất đạo đức của con người. “Thanh” 青 là màu xanh mà người
đời xưa cho màu xanh là cái sắc của phương đông. “Tâm” 心 là tim mà
người đời xưa quan niệm rằng tim là vật để nghĩ ngợi,cho nên cái gì thuộc về tư
tưởng đều gọi là tâm. “Tài” 才 là những người làm việc giỏi thì được gọi là
tài. “Nhân” 人 nhân ở đây là người. Qua bốn nghĩa của các con chữ nói trên có
thể thấy được ý nghĩa và giá trị của từng chữ. Đặc biệt khi kết hợp chữ
“Thanh” 青 cùng với chữ “Tâm” 心 thì ta sẽ có được chữ “Tình” 情 . Điều này thể hiện
một cái tính nhân cách củng như là tài năng của “Thanh Tâm Tài Nhân” thông qua
cái tên của mình. Thể hiện ở con người vừa có “Tài” 才 lại vừa có “Tình” 情.
Hán Nôm học còn là nghành nghiên cứu đi sâu vào nền văn háo dân tộc. Giúp cho
sinh viên các trường đại học sư phạm hiện nay có thể hiểu biết mở mang thêm về
lịch sử văn hiến lấu đời. Ngoài kiến thức về văn học thực tiễn thì văn hóa dân
tộc còn đóng một vai trò quan trọng trong nền tảng kiến thức của một sinh viên
sư phạm thuộc lĩnh vực văn học. Chữ “Văn Hiến”là một khái niệm gồm hai yếu tố
“Văn” và “Hiến”.”Văn” là văn tự,văn chương,văn tịch , “Hiến” là “con người hiền
tài” là “nguyên khí quốc gia”. “Văn hiến bao gồm toàn bộ yếu tố văn vật của một
nền văn hóa và chủ thể. Từ nghiên cứu khái niệm , ta thấy được tầm quan trọng
của Hán Nôm. Đi vào lí giải ngọn ngành mọi khái niệm và văn tự bổ sung cho kiến
thức cơ bản của ta và tạo cho ta một lượng kiến thức Hán Nôm vững chắc và cơ
bản để đi liền với nền văn học, văn hóa nước nhà.
Song nhìn vào thực tế
việc học tập bộ môn Hán Nôm của sinh viên Ngữ Văn sư phạm còn nhiều bất cập.
Hán Nôm là một môn học hết sức mới lạ đối với sinh viên ngành Ngữ Văn. Khái
niệm chữ Hán, hình thù chữ Hán và 214 bộ thủ chữ Hán của các bạn còn rất mơ hồ.
Lấy một ví dụ đơn giản về sự khác biệt giữa hai từ: “Khuyến Mãi” và “Khuyến
Mại” có một số bạn cho rằng hai từ ấy đều là một. Nhưng thật ra hai từ :“Khuyến
Mãi” và “Khyến Mại” là khác nhau.
“Mãi” 買 : mua và “Mại” 賣 : bán.
Cho nên “Khuyến mãi”
và “Khuyến mại” là khác nhau.
. ”Khuyến mãi” là: các chương trình công
ty dành cho người tiêu dùng mua sản phẩm và được tặng các phần quà miễn phí.
Sản phẩm hay giảm giá sẽ được ưu đãi trực tiếp cho người tiêu dùng .
. “Khuyến mại” là: các chương trình công ty dành cho đại lý, công
ty phân phối lại các nhà tiêu thụ bán lẻ sản phẩm lại cho người tiêu
dùng.
Mặc dù có một số bạn có thể định nghĩa
được nhưng còn hết sức là mơ hồ. Tình trạng này còn xảy ra với nhiều sinh viên
và mục tiêu của sinh viên hiện tại bây giờ là học tập bộ môn Hán Nôm cho đủ điểm
và qua môn chứ chưa thật sự chuyên sâu vào bộ môn này. Hiện nay có một số đầu
sách được viết ra để bồi bổ cho kiến thức Hán Nôm của sinh viên như: Tự Điển Hán Việt “漢越辭典”của Thiều Chửu , Hán Việt từ điển “漢越辭典” của Đào Duy Anh , Đại
Từ Điển Chữ Nôm của Vũ Văn Kính nhưng sự tiếp cận đối
với các sách ấy còn quá thấp và khai thác còn rất mơ hồ. Dẫn đến xảy ra hiện
tượng các sinh viên như “Tẩu Mã Khán Hoa” (Cưỡi ngựa xem hoa) chưa chú tâm và
đạt được sự hiểu biết ngọn ngành về bộ môn này.
Có một số ý kiến cho rằng : Ngành đào
tạo Hán Nôm có những đặc điểm giống với văn học Trung Quốc nên lầm tưởng có
tiếng không hay về bộ môn này. Nhưng chính đó là một sự ngộ nhận tai hại, thật
ra Hán Nôm có đối tượng và vai trò ý nghĩa khác với Trung Quốc học nói chung và
văn học Trung Quốc nói riêng mặc dù giữa hai ngành học này có quan hệ về mặt
văn tự. Từ những ý niệm sai lầm ấy mà dẫn đến hiện trạng chữ Hán và Nôm bị xao
lãng và thiếu mất đi tầm quan trọng trong văn học.
Cho nên muốn giữ gìn và làm cho
nền văn học và văn hóa của nước ta cùng với sự phát triển của Tiếng Việt ngày
càng phong phú và trong sáng hơn,đặng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam giàu
bản sắc dân tộc thì việc xác định tính bức thiết của ngành Hán Nôm không chỉ ở
bộ môn Hán Nôm ở các khoa Ngữ Văn mà là nhiệm vụ bức thiết của quốc gia.
Tài liệu tham khảo:
1.Xem giáo trình Hán
Văn Lý-Trần của PGS.TS Phạm Văn Khoái . Trường đại học khoa học xã hội và nhân
văn “Đại học quốc gia Hà Nội”.
2.Xem Trần Nghĩa và
F.Gros(đồng chủ biên), Di sản Hán Nôm Việt Nam-Thư mục đề yếu, 3 tập;
tập 1, NXB.Khoa học xã hội,Hà Nội,1993.
3.Xem tác phẩm “Hoàng
Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” 黃鶴樓送孟浩然之廣陵 của Lý
Bạch.
4.Xem giáo trình “Cơ Sở
Văn Hóa Việt Nam” của GS.Trần Ngọc Thêm.
5.Nguyễn Quang
Hồng, Chữ Hán chữ Nôm với thế hệ trẻ, Ngôn ngữ và đời sống,
số 12, năm 2008.