Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014

Tầm quan trọng của bộ môn Hán Nôm đối với sinh viên ngành Ngữ Văn nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung.


Bộ môn Hán Nôm là một môn khoa học có liên quan mật thiết và rất quan trọng đối với ngành văn học Việt Nam. Trong  kho tàng từ vựng Tiếng Việt cùng với các mảng thơ văn thì chữ Hán và chữ Nôm đóng vai trò là một phần “máu thịt” không thể thiếu được, thiếu những nguyên liệu Hán Nôm này thì tòa lâu đài văn học Việt Nam không trở nên “đồ sộ” và “nguy nga” được.
     Nước ta là một nước nằm ở khu vực Đông Nam Á, phía Bắc giáp với Trung Quốc nên chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa phương đông nói chung và nền văn hóa Trung Hoa nói riêng. Trong lịch sử khi nước ta bị Trung Quốc thống  trị, từ năm 111 trước Tây lịch tức từ Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức đem quân sang xâm lược nước ta, cho mãi đến năm 938 khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán ở cửa sông Bạch Đằng. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc người Trung quốc đã mang văn hóa của họ trong đó có chữ Hán phổ biến ở nước ta. Qua các thời kỳ lịch sử và nhiều sự kiện xảy ra thì nước ta đã chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa phương Đông và đặc thù là nền văn hóa Trung Hoa. Ở thời kỳ này chữ Hán bắt đầu xuất hiện và phổ biến trong nhân dân ta.
      Đến đời Trần (TK XIII) chữ Nôm ( thứ chữ do nhân dân ta vận dụng chữ Hán mà chế tác ra để ghi tiếng nói của dân tộc) bắt đầu dùng để sáng tác những mảng thơ văn đầu tiên, rồi dần dần thịnh hành và tồn tại phát triển song song với chữ Hán. Một số tác phẩm nổi bật ở thời kỳ Lý-Trần với các thể loại thơ,phú…Tác phẩm “Xuân Cảnh” của Trần Nhân Tông, “Tụng Giá Hoàn Kinh Sư” của Trần Quang Khải, “Xuân Đán” của Chu Văn An, “Lưu Gia Độ” của Trần Quang Khải…. xuất hiện tiêu biểu cho thời kỳ này.
     Đến thời kỳ (TK XX) thì chữ Hán và chữ Nôm có phạm vi và mức độ bị thu hẹp dần , mà tác phẩm “Ngục Trung Nhật Ký” của Hồ Chí Minh (1942-1943) được coi là cái mốc cuối đánh dấu sự cáo chung của chữ Hán và chữ Nôm. Với thời gian sử dụng ghi chép trong 2000 năm với chữ hán và 700 năm với chữ Nôm thì chữ Hán và chữ Nôm đã để lại cho thư viện văn học một số lượng tác phẩm khá nhiều và đa dạng về các thể loại.
Đối với các nghành đào tạo trong hệ giáo dục hiện nay đặc biệt là ngành Ngữ Văn thì không thể thiếu phân môn cho bộ môn Hán Nôm này. Trong kho tàng văn học của ông cha ta để lại thì dung lượng văn thơ chữ Nôm và chữ Hán khá là đồ sộ, chữ Hán Nôm đóng vai trò đặc biệt trong việc nâng cao giá trị của tác phẩm, đưa tác phẩm thơ văn lên một tầm vóc cao lớn hơn. Làm tăng giá trị ngôn từ cho tác phẩm. Hàng trăm cuốn sách chuyên luận, các bản dịch thơ văn của các nhà Hán học,Nôm học đã xuất bản trong vài chục năm qua là những đóng góp to lớn của ngành Hán Nôm đối với nền văn học cổ điển nước nhà. Theo nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội hiện quản lý 5.038 đầu sách và khoảng 30.000 đơn vị tư liệu bao gồm các loại như phim, ảnh, bản rập các bài văn khắc trên bia đá, chuông đồng, khánh đá, biển gỗ. Đó là chưa kể những sách Hán Nôm , Châu bản triều Nguyễn, địa bộ, sắc thần, bia đá, thơ, câu đối, hoành phi… hiện còn rải rác trong dân chúng, ở các cung điện, lăng tẩm, đình chùa, các thư viện và cơ quan lưu trữ khác ở trong nước, các thư viện ở nước ngoài. Hiểu rõ hơn nền văn học của cha ông chúng ta đó là một yếu tố quan trọng để làm nên diện mạo và bản sắc của văn học Việt Nam hiện nay.
     Khi tiếp cận trực tiếp vào tác phẩm  văn học thì ta mới thấy được giá trị thẩm mĩ và giá trị đích thực của chữ Hán và Nôm. Vì vậy khi giảng dạy tại các nhà trường đối với ngành Ngữ Văn thì bộ môn luôn đi song song với chuyên ngành đào tạo Ngữ Văn. Tuy là còn mới lạ đối với thế hệ trẻ hiện nay nhưng khi tiếp xúc với bộ môn này sẽ giúp cho kiến thức của sinh viên vững chắc và chặt chẽ khi phân tích các tác phẩm phiên âm từ chữ Hán. Ngoài kiến thức văn học trung đại ,hiện đại từ vựng ngữ nghĩa Tiếng Việt là sơ cấp thì kiến thức Hán Nôm là gốc rễ để phân tích “ngọn ngành” cho mọi từ ngữ gốc Hán được rõ nghĩa đến từng chi tiết . Đọc câu thơ “ Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu”  故人西辭黃鶴樓 trích từ bài: “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”  黃鶴樓送孟浩然之廣陵  của Lý Bạch   李白  nếu muốn tìm hiểu tâm trạng luyến nhớ của nhân vật trữ tình trong buổi chia tay được kín đáo đan cài trong câu thơ mà chỉ lướt qua phần dịch nghĩa kiến thức không vững thì ta chẳng thấy gì ngoài nội dung thông báo là : “Ngoái về phía tây,bạn cũ giã từ lấu Hoàng Hạc thì thật sự hết sức bình thường và vô cảm. Những điều này chỉ có thể cảm nhận  được khi đi sâu và khám phá hệ thống ngôn từ của câu thơ bắt đầu từ chữ “Cố Nhân”  故人 .Khi Ngô Tất Tố dịch thành bạn cũ thì chư lột tả được hàm ý sâu xa của từ này. Nhưng khi đặt vào các trường hợp yếu tố “Cố”    như: Cố Quốc, Cố Hương, Cố Viên… ta mới thấy được hết bao tình cảm yêu thương triều mến trong từ “Cố Nhân”, phải là người bạn hết sức thâm giao thì mới dùng từ “Cố Nhân”  để gọi nhau.
     Nếu đứng trên lập trường và thú về nghệ thuật chơi chữ Hán Nôm trong các tác phẩm thơ ca hay các con chữ trong một khổ văn thì mới thấy được cái ý nghĩa sâu xa đồng thời thấy cái hay của nó:  Lấy ví dụ từ chữ “Sầu”    ta có thể lí giải được bao  điều mới lạ giữu mùa thu và văn chương. “Sầu” gồm chữ Thu    và chữ Tâm   . Mùa thu đậu trên lòng người với những nỗi niềm thấm đẫm trong thơ ca từ cổ kim đều thấm đẫm nỗi buồn. Trong kho tàng văn học nước ta một số tác phẩm đều mang nỗi buồn sầu ấy được thể hiện qua các bài thơ của cụ Nguyễn Khuyến với : “Thu Vịnh”,  “Thu Điếu”, “Thu Ẩm” hay như “Thu Hứng” của Đỗ Phủ như  “Đây mùa xuân tới” của Xuân Diệu. Hay trong nghệ thuật và sự khám phá cái lý thú về nghệ thuật chơi chữ của tên các tác giả Trung Hoa. Ví như: “Thanh Tâm Tài Nhân”  青心才人   là tác giả của tác phẩm nổi tiếng  Kim Vân Kiều  金雲翹 . Tên tác giả “Thanh Tâm Tài Nhân”  nếu như khi đọc qua mà không có sự hiểu biết sâu rộng và nghĩa trong từng con chữ thì sẽ là một cái tên bình thường không có gì đặc biệt nhưng khi đi sâu vào phân tích cái tên ấy ra thì sẽ thấy được cái hay và thú vị trong đó. “Thanh Tâm Tài Nhân”  được kết hợp với bốn cái tên gắn liền với bốn phẩm chất đạo đức của con người. “Thanh”   là màu xanh mà người đời xưa cho màu xanh là cái sắc của phương đông. “Tâm”    là tim mà người đời xưa quan niệm rằng tim là vật để nghĩ ngợi,cho nên cái gì thuộc về tư tưởng đều gọi là tâm. “Tài”  là những người làm việc giỏi thì được gọi là tài. “Nhân”   nhân ở đây là người. Qua bốn nghĩa của các con chữ nói trên có thể thấy được ý nghĩa và giá trị của từng chữ. Đặc biệt khi kết hợp chữ “Thanh”  cùng với chữ “Tâm”   thì ta sẽ có được chữ “Tình”   . Điều này thể hiện một cái tính nhân cách củng như là tài năng của “Thanh Tâm Tài Nhân” thông qua cái tên của mình. Thể hiện ở con người vừa có “Tài” 才 lại vừa có “Tình”  .
     Hán Nôm học còn là nghành nghiên cứu đi sâu vào nền văn háo dân tộc. Giúp cho sinh viên các trường đại học sư phạm hiện nay có thể hiểu biết mở mang thêm về lịch sử văn hiến lấu đời. Ngoài kiến thức về văn học thực tiễn thì văn hóa dân tộc còn đóng một vai trò quan trọng trong nền tảng kiến thức của một sinh viên sư phạm thuộc lĩnh vực văn học. Chữ “Văn Hiến”là một khái niệm gồm hai yếu tố “Văn” và “Hiến”.”Văn” là văn tự,văn chương,văn tịch , “Hiến” là “con người hiền tài” là “nguyên khí quốc gia”. “Văn hiến bao gồm toàn bộ yếu tố văn vật của một nền văn hóa và chủ thể. Từ nghiên cứu khái niệm , ta thấy được tầm quan trọng của Hán Nôm. Đi vào lí giải ngọn ngành mọi khái niệm và văn tự bổ sung cho kiến thức cơ bản của ta và tạo cho ta một lượng kiến thức Hán Nôm vững chắc và cơ bản để đi liền với nền văn học, văn hóa nước nhà.
Song nhìn vào thực tế việc học tập bộ môn Hán Nôm của sinh viên Ngữ Văn sư phạm còn nhiều bất cập. Hán Nôm là một môn học hết sức mới lạ đối với sinh viên ngành Ngữ Văn. Khái niệm chữ Hán, hình thù chữ Hán và 214 bộ thủ chữ Hán của các bạn còn rất mơ hồ. Lấy một ví dụ đơn giản về sự khác biệt giữa hai từ: “Khuyến Mãi” và “Khuyến Mại” có một số bạn cho rằng hai từ ấy đều là một. Nhưng thật ra hai từ :“Khuyến Mãi” và “Khyến Mại” là khác nhau.
“Mãi    : mua và “Mại”    : bán.
Cho nên “Khuyến mãi” và “Khuyến mại” là khác nhau.
”Khuyến mãi” là:  các chương trình công ty dành cho người tiêu dùng mua sản phẩm và được tặng các phần quà miễn phí. Sản phẩm hay giảm giá sẽ được ưu đãi trực tiếp cho người tiêu dùng .
. “Khuyến mại” là: các chương trình công ty dành cho đại lý, công ty phân phối lại các nhà tiêu thụ  bán lẻ sản phẩm lại cho người tiêu dùng.
     Mặc dù có một số bạn có thể định nghĩa được nhưng còn hết sức là mơ hồ. Tình trạng này còn xảy ra với nhiều sinh viên và mục tiêu của sinh viên hiện tại bây giờ là học tập bộ môn Hán Nôm cho đủ điểm và qua môn chứ chưa thật sự chuyên sâu vào bộ môn này. Hiện nay có một số đầu sách được viết ra để bồi bổ cho kiến thức Hán Nôm của sinh viên như: Tự Điển Hán Việt “漢越辭典của Thiều Chửu ,  Hán Việt từ điển “漢越辭典” của Đào Duy Anh , Đại Từ Điển Chữ Nôm của Vũ Văn Kính nhưng sự tiếp cận đối với các sách ấy còn quá thấp và khai thác còn rất mơ hồ. Dẫn đến xảy ra hiện tượng các sinh viên như “Tẩu Mã Khán Hoa” (Cưỡi ngựa xem hoa) chưa chú tâm và đạt được sự hiểu biết ngọn ngành về bộ môn này.
     Có một số ý kiến cho rằng : Ngành đào tạo Hán Nôm có những đặc điểm giống với văn học Trung Quốc nên lầm tưởng có tiếng không hay về bộ môn này. Nhưng chính đó là một sự ngộ nhận tai hại, thật ra Hán Nôm có đối tượng và vai trò ý nghĩa khác với Trung Quốc học nói chung và văn học Trung Quốc nói riêng mặc dù giữa hai ngành học này có quan hệ về mặt văn tự. Từ những ý niệm sai lầm ấy mà dẫn đến hiện trạng chữ Hán và Nôm bị xao lãng và thiếu mất đi tầm quan trọng trong văn học.
      Cho nên muốn giữ gìn và làm cho nền văn học và văn hóa của nước ta cùng với sự phát triển của Tiếng Việt ngày càng phong phú và trong sáng hơn,đặng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc dân tộc thì việc xác định tính bức thiết của ngành Hán Nôm không chỉ ở bộ môn Hán Nôm ở các khoa Ngữ Văn mà là nhiệm vụ bức thiết của quốc gia.


Tài liệu tham khảo:

1.Xem giáo trình Hán Văn Lý-Trần của PGS.TS Phạm Văn Khoái . Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn “Đại học quốc gia Hà Nội”.

2.Xem Trần Nghĩa và F.Gros(đồng chủ biên), Di sản Hán Nôm Việt Nam-Thư mục đề yếu, 3 tập; tập 1, NXB.Khoa học xã hội,Hà Nội,1993.

3.Xem tác phẩm Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”  黃鶴樓送孟浩然之廣陵 của Lý Bạch.

4.Xem giáo trình “Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam” của GS.Trần Ngọc Thêm.

5.Nguyễn Quang Hồng, Chữ Hán chữ Nôm với thế hệ trẻ, Ngôn ngữ và đời sống, số 12, năm 2008.

Võ Như Văn.

Đăng U Châu Đài Ca (登幽州臺歌)

登幽州臺歌

(陳子昂):
前不見古人
後不見來者
念天地之悠悠
獨愴然而涕下

Đăng U Châu đài ca


Trần Tử Ngang
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ

Người trước chẳng thấy đâu
Người sau càng mờ mịt
Ngẫm trời đất vô cùng
Riêng lòng đau (mà) lệ chảy.